Tháng trước, bà Triệu đến bệnh viện tái khám định kỳ. Kết quả kiểm tra cho thấy chức năng gan và alpha-fetoprotein vẫn bình thường, nhưng một trong các chỉ số khối u CA-199 cao hơn một chút, khiến bác sĩ phải chú ý, vì trước đây kết quả luôn bình thường và không có vấn đề gì.
(Ảnh minh họa)
Vì vậy, bác sĩ cho rằng đó có thể là khối u đường tiêu hóa nên yêu cầu bà Triệu chụp CT vùng bụng trên. Kết quả khám nghiệm cho thấy bà Triệu có một khối u nhỏ ở cổ tuyến tụy. Sau khi chẩn đoán thêm, bà được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tụy.
Vua ung thư – ung thư tuyến tụy
Ung thư tuyến tụy là khối u ác tính ở đường tiêu hóa, có độ ác tính cao, phát triển nhanh và tiên lượng rất xấu. Trong thực hành lâm sàng, đại đa số bệnh nhân ung thư tuyến tụy chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến ống tụy có nguồn gốc từ biểu mô ống tụy. Nó có nhiều khả năng xảy ra ở những người trên 40 tuổi. Trong điều kiện bình thường, nam giới có nhiều khả năng mắc ung thư tuyến tụy hơn nữ giới, nhưng tỷ lệ mắc bệnh ở phụ nữ sau mãn kinh về cơ bản giống như nam giới.
Hiện nay, nguyên nhân gây ung thư tuyến tụy vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. Người ta tin rằng nó có thể liên quan đến thói quen ăn thực phẩm giàu chất béo, giàu protein của mọi người, cùng với thói quen hút thuốc, uống rượu và các thói quen sinh hoạt không tốt khác, hoặc môi trường xung quanh bệnh nhân và các yếu tố di truyền có liên quan đến.
Các báo cáo khảo sát trong những năm gần đây cho thấy bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường có nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy cao hơn người bình thường. Ngoài ra, bệnh nhân viêm tụy mãn tính cũng có liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư tuyến tụy. Trên lâm sàng, bệnh nhân viêm tụy mãn tính có tỷ lệ ung thư tuyến tụy cao hơn đáng kể.
(Ảnh minh họa)
Các biểu hiện lâm sàng của ung thư tuyến tụy chủ yếu phụ thuộc vào vị trí cụ thể của ung thư, diễn biến bệnh sớm hay muộn và khám lâm sàng để xác nhận liệu ung thư đã di căn và lan sang các cơ quan lân cận khác hay chưa. Đặc điểm lớn nhất của ung thư tuyến tụy là diễn biến ngắn và tiến triển rất nhanh. Nó được mệnh danh là “Vua ung thư” trong thực hành lâm sàng. Vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày, nếu thấy cơ thể mình có biểu hiện bất thường thì phải đến bệnh viện để khám kịp thời, vì việc khám kịp thời sẽ có lợi cho việc kiểm soát bệnh, ngăn ngừa bệnh trở nên nặng hơn.
Khi cơ thể phát ra 4 “báo động” này, đó có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư tuyến tụy!
Đau bụng
Đau bụng là một trong những triệu chứng chính của ung thư tuyến tụy. Bất kể sự xuất hiện của ung thư ở bất kỳ bộ phận cụ thể nào trong tuyến tụy của bệnh nhân, nó có thể khiến bệnh nhân cảm thấy đau. Nguyên nhân chính là do bệnh nhân ung thư tuyến tụy có thể bị tắc nghẽn ở ống tụy, ống mật và các bộ phận khác của cơ thể, khiến mật của bệnh nhân không thể thải ra ngoài một cách thuận lợi, khiến áp lực trong ống mật tăng cao, dẫn đến bệnh nhân bị đau bụng. Ở giai đoạn đầu, cơn đau này có thể xuất hiện dưới dạng đau âm ỉ. Khi tình trạng tiếp tục phát triển, cơn đau tăng dần, thậm chí có thể phát triển thành cơn đau dai dẳng.
(Ảnh minh họa)
Ngoài ra, do khối u ác tính xâm lấn, chèn ép và di căn, người bệnh còn có thể bị đau lan tỏa vùng thắt lưng, thậm chí có thể gây đau nhức cơ quan sinh sản của người bệnh.
Vàng da
Bệnh vàng da dùng để chỉ tình trạng da và mắt của chúng ta (đặc biệt là củng mạc hoặc phần trắng của nhãn cầu) chuyển sang màu vàng. Mặc dù vàng da thường do những người bị viêm gan, sỏi mật và các bệnh về gan và túi mật khác gây ra, vàng da cũng có thể là dấu hiệu của ung thư tuyến tụy.
Bởi vì các nghiên cứu lâm sàng cho thấy gần một nửa số bệnh nhân ung thư tuyến tụy phát triển thành ung thư đầu tụy và một trong những triệu chứng điển hình nhất của ung thư đầu tụy là vàng da, chủ yếu liên quan đến tắc nghẽn ống mật ngoài gan. Vàng da ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy chủ yếu là do ống mật chung đi qua phía trên đầu tụy và khi khối ung thư trong cơ thể bệnh nhân tiếp tục phát triển, rất có thể nó sẽ hình thành ở đầu dưới của ống mật chung. Ức chế, vi phạm, gây tắc nghẽn, khiến mật trong cơ thể không thể thải ra ngoài một cách thuận lợi sẽ sinh ra bilirubin, tích tụ trong máu. Khi lượng bilirubin dư thừa trong máu thấm vào các mô xung quanh có thể khiến da và mắt của người bệnh có màu vàng.
(Ảnh minh họa)
Bất thường ở đường tiêu hóa
Vì tuyến tụy là một thành viên của hệ tiêu hóa nên khi mắc bệnh ung thư tuyến tụy, khối ung thư sẽ phá hủy chức năng ngoại tiết của chính tuyến tụy. Đồng thời, khối ung thư ở tuyến tụy có thể chèn ép ống mật chung, từ đó ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa của người bệnh và gây ra những bất thường ở đường tiêu hóa của người bệnh.
Theo dữ liệu lâm sàng, các triệu chứng đường tiêu hóa phổ biến nhất ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy chủ yếu là chán ăn, tiếp theo là buồn nôn và nôn mửa, tiêu chảy hoặc táo bón, thậm chí có thể xuất hiện phân đen.
Giảm cân đột ngột
Trong trường hợp bình thường, việc giảm cân ở bệnh nhân ung thư về cơ bản xảy ra ở giai đoạn giữa và cuối của bệnh ung thư. Tuy nhiên, bệnh nhân ung thư tuyến tụy rất dễ gặp phải triệu chứng sụt cân ở giai đoạn đầu của bệnh, thậm chí có thể xuất hiện trong thời gian ngắn. Chỉ trong vòng vài tháng, cân nặng đã giảm hơn 10 kg.
Có nhiều nguyên nhân khiến bệnh nhân ung thư tuyến tụy sụt cân. Có thể quá trình bài tiết dịch tụy và mật trong cơ thể người bệnh sẽ bị cản trở khiến chức năng tiêu hóa của người bệnh không hoạt động bình thường dẫn đến tình trạng khó tiêu, ảnh hưởng đến cảm giác thèm ăn của người bệnh. Khi người bệnh chán ăn, khó tiêu, cơ thể sẽ giảm ăn uống và hấp thu chất dinh dưỡng dẫn đến sụt cân đáng kể.
Để chẩn đoán sớm ung thư tuyến tụy phải thực hiện 3 xét nghiệm này
Hiện nay, trong thực hành lâm sàng, công nghệ chẩn đoán hình ảnh là phương tiện quan trọng để xác định vị trí và chẩn đoán định tính ung thư tuyến tụy. Chủ yếu bao gồm các loại sau:
Siêu âm bụng
Kiểm tra siêu âm bụng có thể hiển thị trực tiếp hình ảnh của tuyến tụy và ngoại vi tuyến tụy trong cơ thể bệnh nhân, đồng thời có thể phát hiện các tổn thương chiếm không gian của tuyến tụy. Đồng thời, cũng có thể quan sát xem bệnh nhân có bị di căn gan, hạch và các bệnh lý khác hay không. Ưu điểm của siêu âm bụng là: đơn giản, không đau, không xâm lấn, giá thành rẻ…
(Ảnh minh họa)
Chụp CT
Hiện nay, trong thực hành lâm sàng, chụp CT là phương pháp được ưa chuộng hơn đối với bệnh nhân có khối u tuyến tụy. Nó có thể hiểu rõ ràng phạm vi tổn thương tuyến tụy ở bệnh nhân mắc bệnh . Nó cũng hữu ích cho các bác sĩ để đánh giá khối u tuyến tụy trước khi phẫu thuật.
Siêu âm nội soi
Hiện nay, siêu âm nội soi là phương pháp chẩn đoán giai đoạn ung thư tuyến tụy nhạy cảm nhất, có thể phát hiện các khối u nhỏ hơn 1mm. Hơn nữa, nó có những ưu điểm rất rõ ràng trong việc xác định bệnh viêm tụy mãn tính và ung thư tuyến tụy.
Điều trị ung thư tuyến tụy như thế nào? Có 3 phương pháp chẩn đoán và điều trị chính:
Điều trị phẫu thuật
Nếu ở giai đoạn đầu của ung thư tuyến tụy, các tổn thương nhỏ và giới hạn ở tuyến tụy thì thông thường có thể sử dụng phẫu thuật cắt bỏ tuyến tụy. Chủ yếu đề cập đến việc cắt bỏ toàn bộ tuyến tụy, thường cùng với ống mật, túi mật, một phần dạ dày và ruột non, cũng như lá lách và các hạch bạch huyết xung quanh.
Quy trình phẫu thuật bao gồm cắt bỏ đầu tụy, phần dưới của dạ dày, cũng như một phần tá tràng, ống mật và các hạch bạch huyết xung quanh, sau đó nối các bộ phận sinh sản của tuyến tụy, dạ dày và ống mật với phần nhỏ. ruột. Phương pháp phẫu thuật này là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho bệnh ung thư tuyến tụy giai đoạn đầu.
(Ảnh minh họa)
Xạ trị
Xạ trị là phương pháp điều trị quan trọng đối với bệnh nhân ung thư tuyến tụy, đặc biệt là sự kết hợp giữa xạ trị, hóa trị và. Đây là phương pháp điều trị ưu tiên cho bệnh ung thư tuyến tụy tiến triển cục bộ.
Tuy nhiên, do ung thư tuyến tụy có khả năng kháng xạ tương đối cao và các cơ quan lân cận của tuyến tụy có khả năng chịu đựng kém với xạ trị nên xạ trị nhấn mạnh và xạ trị định vị thường được sử dụng. Công nghệ điều trị ung thư tuyến tụy. Ưu điểm điều trị của công nghệ này là nó có thể cải thiện và tăng tỷ lệ kiểm soát tại chỗ cũng như tỷ lệ sống sót của bệnh nhân.
Hóa trị
Hóa trị chủ yếu đề cập đến việc bệnh nhân dùng thuốc liên quan bằng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch để ức chế sự phát triển của tế bào ung thư trong cơ thể. Nó thường là một phương pháp điều trị hỗ trợ các phương pháp điều trị khác trong thực hành lâm sàng.