Huyệt này được thấy sớm nhất trong sách "Linh khu - Nhiệt bệnh", có công dụng thanh nhiệt sơ phong, thông nhĩ minh mục, kiện não an thần, được dùng để chữa các chứng bệnh như đau nửa đầu, đau mắt đỏ, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, sốt không ra mồ hôi, trúng phong (rối loạn tuần hoàn não), đau cổ vai, giảm thị lực do teo thần kinh thị giác, động kinh, viêm mũi.
Có thể tự xác định theo cách đơn giản như sau:
Đầu tiên, xòe hai bàn tay, đặt hõm giữa lòng bàn tay vào đỉnh hai tai, các ngón tay ôm chặt lấy đầu, hướng ngón cái về phía sau gáy. Sau đó miết hai ngón tay cái từ trên xuống dưới, vượt qua một ụ xương rồi rơi xuống một chỗ hõm ở hai bên khối cơ nổi sau gáy, đó chính là vị trí của huyệt Phong trì.
- Dùng hai ngón tay cái day ấn huyệt theo chiều kim đồng hồ trong 2 - 3 phút trong khi các ngón tay khác ôm chặt lấy đầu để làm điểm tựa. Chú ý thao tác phải nhịp nhàng nhưng đảm bảo lực tác động tương đối mạnh sao cho tại chỗ có cảm giác căng tức, có khi lan ra vùng cổ hoặc ngược lên nửa sau đầu.
- Mỗi ngày day bấm 2 lần, có thể tác động đơn độc hoặc phối hợp với các bài xoa bóp vùng đầu cổ khác.
Nhìn chung, những người bị thiểu năng tuần hoàn não mạn tính đều có thể áp dụng phương pháp day ấn huyệt Phong trì như trên.
Tình trạng bệnh lý này thường được biểu hiện bằng các triệu chứng như đau hoặc nặng đầu, chóng mặt hoa mắt, mất ngủ, ù tai, hay quên, giảm sút sức chú ý và năng lực ghi nhớ, tính tình dễ thay đổi, dễ lâm vào trạng thái căng thẳng, khả năng làm việc trí óc sút kém, thậm chí có thể xuất hiện run tay chân.
Trong y học cổ truyền, tình trạng này thuộc phạm vi các chứng như "Đầu thống", "Huyễn vựng", "Thất miên", "Tâm quý", "Kinh chứng"…Riêng đối với những người có kèm theo tăng huyết áp thì nhất thiết phải có sự chỉ dẫn chi tiết của bác sĩ chuyên khoa Đông y.
"Phong" có nghĩa là gió, ý muốn nói đến tác nhân gây bệnh và tính chất diễn biến của bệnh ; "Trì" có nghĩa là cái ao, ở đây nói tới một chỗ hõm, "Phong trì" là huyệt được hợp lại bởi kinh Đởm và mạch Dương duy ở trong góc hõm do các khối cơ vùng cổ gáy tạo nên, nó được xem như là nơi phong tà (tác nhân gây bệnh) dễ xâm nhập tạo nên những dấu hiệu của chứng cảm mạo phong hàn và phong nhiệt, chứng trúng phong gây đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, thậm chí có thể bại hoặc liệt nửa người. Bởi thế, sách Kinh huyệt thích nghĩa giải hội đa ghi rằng: "Huyệt ở chỗ hõm trong tóc phía sau mang tai. Chỗ huyệt này tựa như cái ao, là huyệt quan trọng để chữa phong nên gọi là "Phong trì"".