Tiền liệt tuyến (TLT) là một cơ quan nằm dưới bàng quang, sau xương mu, trước trực tràng và bao phủ chung quanh niệu đạo tiền liệt. Do TLT nằm trước trực tràng nên có thể sờ thấy được khi đưa ngón tay vào trong hậu môn (thuật ngữ y khoa còn gọi là “thăm trực tràng”).
TLT là một cơ quan của hệ sinh dục đàn ông, ở nữ không có. TLT có hình nón, đáy ở trên và đỉnh ở dưới, rộng 4 cm, cao 3 cm, dày 2,5 cm, nặng trung bình 15-20 g ở người lớn. TLT có chức năng chính là tiết ra tinh dịch rồi đổ vào niệu đạo ở xoang tiền liệt. Dịch TLT có màu trắng đục với pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo), nhờ vậy có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng cho đến khi thụ tinh. Lượng dịch do TLT bài tiết chiếm khoảng 30% thể tích dịch phóng ra trong mỗi lần giao hợp. Dịch TLT chứa nhiều axít citric, ion canxi, nhiều loại enzyme đông đặc, tiền fibrinolysin, prostaglandin.
Các enzyme đông đặc của TLT sẽ tác động vào fibrinogen làm đông nhẹ tinh dịch ở đường sinh dục nữ, do vậy có thể giữ tinh trùng nằm sát cổ tử cung. Sau 15-30 phút, tinh dịch sẽ được làm loãng trở lại nhờ enzyme fibrinolysin có trong dịch TLT và tinh trùng hoạt động trở lại. Prostaglandin của dịch TLT cũng như dịch của túi tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động vòi trứng, giúp tinh trùng di chuyển trong đường sinh dục nữ và dịch này giúp bôi trơn cho hoạt động tình dục.
Các bệnh thường gặp của tiền liệt tuyến
1. Viêm TLT cấp tính: Là tình trạng nhiễm trùng TLT thường do một số vi khuẩn tương tự gây nhiễm trùng bàng quang. Các vi khuẩn đó là E.Coli, Klebsiella, Proteus. Vi khuẩn có thể từ đường máu lan đến TLT hoặc từ cơ quan kế cận hoặc do sinh thiết TLT không bảo đảm vô trùng. Bệnh thường hay gặp trong tuần trăng mật giữa tân lang và tân nương do hoạt động tình dục quá nhiều. Bệnh khởi phát đột ngột với sốt, ớn lạnh, đau vùng lưng dưới và vùng tầng sinh môn (vùng nằm giữa bộ phận sinh dục ngoài và hậu môn), kèm theo tiểu khó, tiểu nhiều lần trong ngày. Thầy thuốc sẽ cho làm xét nghiệm nước tiểu để tìm bạch cầu, vi khuẩn giúp chọn lựa kháng sinh phù hợp. Thường kháng sinh được cho là nhóm Fluoroquinolon (Ciprofloxacin), kèm theo là một thuốc kháng viêm như Serratiopeptidase. Bệnh nhân được cho nghỉ ngơi, uống nhiều nước và thuốc giảm đau. Nếu bệnh nhân ở trong tình trạng suy giảm miễn dịch như đang được hóa trị liệu hay nhiễm HIV/AIDS, cần cho bệnh nhân nhập viện ngay.
2. Viêm TLT mạn tính: Các triệu chứng thường nhẹ hơn so với giai đoạn cấp tính. Bệnh nhân không sốt, đau lúc phóng tinh và tinh dịch có máu. Tiểu khó, tiểu lắt nhắt nhiều lần trong ngày, đôi lúc có chảy dịch ở đầu dương vật.
3. U phì đại lành tính TLT: Ở trẻ em TLT rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì, TLT bắt đầu phát triển đạt tới kích thước tối đa vào lúc 20 tuổi và giữ nguyên kích thước cho tới năm 50 tuổi. Kể từ tuổi 50 trở đi, TLT to ra theo thời gian và gây ra bệnh u phì đại lành tính TLT. Bệnh phát triển từ từ hay đột ngột với những biến chứng như nhiễm trùng, bí tiểu, suy thận. U phì đại lành tính TLT không có hiện tượng ung thư hóa nhưng có thể bị ung thư xâm nhiễm với tỉ lệ từ 10%-25%. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân hay tiểu lắt nhắt vào ban đêm, nhất là từ nửa đêm đến sáng sớm, mỗi lần đi tiểu phải rặn. Sau đó đi tiểu lắt nhắt cả ngày lẫn đêm, mỗi lần đi tiểu xong vẫn có cảm giác nước tiểu chưa ra hết mà còn đọng lại trong bàng quang. Cuối cùng là tiểu ri rỉ hoặc bí tiểu. Nhiễm trùng là biến chứng hay gặp. Thăm trực tràng thấy một khối u to, hơi mềm hoặc chắc, bề mặt nhẵn. Để chẩn đoán chính xác, cần cho bệnh nhân đi siêu âm. Khi bệnh tiến triển nặng hoặc biến chứng cần sự can thiệp phẫu thuật. Hiện nay, loại phẫu thuật được nhiều thầy thuốc ưa thích và lựa chọn là phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo.
5. Ung thư TLT: Khi ung thư TLT xảy ra, các tế bào ung thư phát triển rất nhanh dưới tác dụng kích thích của testosterone (nội tiết tố sinh dục nam). Ngược lại, sự phát triển của tế bào ung thư sẽ bị ức chế nếu cắt bỏ tinh hoàn. Ung thư TLT ít gặp hơn u phì đại lành tính TLT. Triệu chứng bao gồm: đau, tiểu khó, tiểu đêm, tiểu máu, rối loạn chức năng cương. Chỉ 1/3 bệnh nhân là có triệu chứng lâm sàng. Để chẩn đoán ung thư TLT có thể định lượng nồng độ PSA trong máu. Nếu nồng độ PSA>40 nanogam/ml thì nghi ngờ ung thư TLT. Tuy nhiên, nồng độ PSA có thể tăng khi nhiễm trùng, khi khối u TLT>60 g. Vì vậy để chẩn đoán chắc chắn, cần sinh thiết TLT một khi thăm trực tràng thấy một khối u to, cứng, bề mặt lổn nhổn cộng với triệu chứng lâm sàng gợi ý. Tùy theo giai đoạn bệnh, di căn mà thầy thuốc sẽ cho cắt bỏ khối u, xạ trị, hóa trị.
Ung thư TLT hay di căn đến xương và hạch limpho. Khi đó bệnh nhân thường bị đau xương, hay gặp ở xương đốt sống, khung chậu hoặc xương sườn. Ung thư TLT di căn đến đốt sống có thể chèn ép dây sống khiến yếu chân, tiểu tiện và đại tiện không tự chủ.