Mâm cúng đời người
Sự kiện đưa cha con “người rừng” ở Quảng Ngãi về làng cũ đã trở thành tâm điểm chú ý của dư luận cả trong và ngoài nước. Dư luận không chỉ hiếu kỳ, mong muốn được tìm hiểu, biết rõ về cuộc sống, sự thích nghi thần kỳ của họ trong suốt 40 năm biệt lập với thế giới văn minh của loài người như thế nào.
Thích được nhìn thấy, sờ nắn những vật dụng mà họ tự chế tác như rìu rựa, xoong nồi, cung lao, tên bẫy, bùi nhùi tạo lửa… như thời kỳ đồ đá mà vốn xưa nay chỉ nhìn thấy qua phim ảnh, các bảo tàng về người tiền sử. Thậm chí, trên các diễn đàn mạng Internet còn lo lắng, chỉ trích, góp ý… và cho rằng không nên đưa ''người rừng'' quay về đột ngột với cuộc sống văn minh của cộng đồng, phải cần sự vào cuộc của giới khoa học, của các nhà nhân chủng học…
Nhưng với thân tộc họ Hồ ở làng Trà Nga, với cộng đồng người Cor ở Tây Trà, Quảng Ngãi, cha con “người rừng” đã “đoạn tuyệt” với hoang vu rừng già từ đây, từ… một mâm cúng đời người.
Bước ngoặt lớn nhất của ''người rừng'' Hồ Văn Lang để trở về với cộng đồng, được công nhận là thành viên của bản làng là từ một mâm cúng trọng đại này. Với họ, thần linh, hương hồn tiên tổ luôn chế ngự phần lớn trong đời sống thường ngày. Các vị thần lớn luôn lảng vảng trong rừng. Thần thường ở đáy vực sâu, thỉnh thoảng thần bay lên, lượn lờ quanh làng trên đôi cánh gió.
Ông Hồ Văn Biên, 68 tuổi, là người em họ của “người rừng” Hồ Văn Thanh đã kể lại câu chuyện ly tán đau buồn của gia đình ông Hồ Văn Thanh. Từ một quả bom oan nghiệt nổ vùi hầm trú ẩn năm 1974, làm chết 26 người, trong đó có mẹ ruột và 2 đứa con trai đầu của ông Thanh, đã khiến cho người đàn ông này bị sang chấn tâm thần, điên loạn vì tột cùng của sự mất mát, đau khổ.
Ông Thanh trở thành người đãng trí từ đó, rồi một ngày bỗng ẵm đứa con lớn còn lại là Hồ Văn Lang chạy trốn biệt vào rừng sâu, sống cuộc đời hoang dã người rừng hơn 40 năm đằng đẵng.
Cũng vì chiến tranh, ly tán nên Hồ Văn Lang chỉ là cái tên vừa đặt rồi bị quên lãng bởi sự mất tích biền biệt này. Bây giờ, đón được nó về với cộng đồng, với làng Trà Nga, việc đầu tiên phải làm soạn mâm cúng để cáo với tổ tiên, thần linh, bản quán về sự có mặt của nó.
Ông Biên nhắm nghiền hai mắt, miệng lâm râm khấn vái, rồi bất ngờ hắt chén rượu xuống đất. Chén than hồng rực đỏ, hun mùi gỗ quế thơm lừng, trong làn khói trắng vấn vương, ông Biên phiêu linh như "nối" được với cõi âm.
Xong phần nghi lễ, ông Biên đưa chén rượu cho Lang uống 1 hớp. Mặt Lang nhăn nhó, người co rúm lại rồi đưa tay phủi phủi miệng giống hệt động tác khỉ ăn phải ớt. Giản đơn, nhanh gọn, nhưng với Lang, cuộc đời mới bắt đầu từ đây. Tổ tiên đã chứng giám, thần linh sẽ phù hộ trên từng bước đường đời.
Giấc mộng thần kỳ
Còn với ông Hồ Minh Lâm, người anh con bác ruột của Lang, người đã cậy nhờ chính quyền cáng ông Thanh, đưa Hồ Văn Lang về với cộng đồng, thì tâm sự rằng anh đã rũ bỏ được gánh nặng với người cha quá cố của mình, với tổ tiên khi đưa được cha con người chú ruột trở về.
Ông Lâm kể, dù cha con chú Hồ Văn Thanh đã biệt tích từ năm 1974, dân làng luôn nghĩ họ đã chết, nếu không do bom đạn chiến tranh thì cũng khó tồn tại bởi muông thú, dịch bệnh. Thế nhưng cha của ông Lâm, ông Hồ Văn Phố, luôn có linh cảm là người em mình vẫn còn sống, quanh quẩn đâu đó trong rừng già.
Ngày còn sống, năm nào ông Phố cũng lặng lẽ đi tìm em, các quẻ bói giò gà của người Cor ở làng Trà Nga đều hiển hiện sự sống của cha con ông Thanh. Chính niềm tin, hy vọng đó được nuôi dưỡng, duy trì trong tâm khảm họ nên đến khoảng năm 2004-2005, gia đình ông Lâm đã phát hiện, tìm gặp được 2 cha con người rừng Hồ Văn Thanh.
Ông Lâm kể: “Từ năm 2005 đến nay, mỗi năm tôi đều tranh thủ một vài chuyến vào núi Apon để thăm cha con chú Thanh, nhưng gia đình cũng khó khăn nên cũng chỉ tiếp tế được ít muối. Hai năm gần đây, tôi lại không vào thăm họ được. Rồi tuần trước, khi ngủ tôi chiêm bao thấy chú và Lang. Tôi thấy họ sống trong một ngôi nhà có phên đất, có quần áo đường hoàng.
Điều kỳ lạ là khi bừng tỉnh, định thần rồi ngủ lại thì giấc chiêm bao ấy cứ lặp lại 3-4 lần trong đêm. Linh tính báo có điềm xấu với chú. Tôi đã vào núi Apon để thăm họ. Đến nơi, thấy chú Thanh ốm nằm liệt một chỗ, chân không co được. Ông ấy đã đau nặng hơn nửa năm nay rồi. Còn Lang thì chỉ biết co ro ngồi bên cạnh buồn thiu, miệng ú ớ như con thú bị thương.
Tôi vội về làng, ra UBND xã xin được hỗ trợ người để vào cáng chú tôi về làng. Rạng sáng ngày 7/8, đoàn thanh niên trai tráng làng Trà Nga và quân dân chính xã Trà Phong đã vào núi Apon, đến 11h trưa thì đến nơi và đưa họ về tối 7/8”.
Mấy ngày qua, sức khoẻ của ông Hồ Văn Thanh dần hồi phục, ông đã có thể ăn uống, ngồi dậy. Duy chỉ có nỗi buồn lo vẫn luôn ngự trị trên dáng ngồi lom khom như người tiền sử trước bếp lửa, trên khuôn mặt thẫn thờ, vô hồn, trên đôi chân tay lều khều, thừa thãi như dã nhân của ông. Đôi mắt u buồn ấy luôn hướng về phía rặng núi xa mờ nơi cửa sổ bệnh viện huyện, rồi thảng thốt “tra-mú-mờ-gót” (Tiếng Cor nghĩa là muốn về rừng núi cũ, thăm rẫy).
Cả Hồ Văn Lang, sau những ngày đầu thích thú với những vật dụng, cảnh quan, con người ở thế giới văn minh, anh đã bắt đầu nhàm chán, bắt đầu nhớ hoang vu. Lang đã nhiều lần toan ôm vật dụng, ống tre lồ ô đựng hạt giống của mình định bỏ trốn về chốn cũ ở chân núi Apon.
Với người rừng Hồ Văn Thanh, 82 tuổi, thì bây giờ việc rời bỏ rừng hoang, về làng cũ là một sự trở lại. Còn Hồ Văn Lang thì ngược lại, 41 tuổi đời thì đã hơn 40 năm sống biệt lập với cộng đồng, vì vậy việc về bản làng, với anh là sự khởi đầu, sự ra đi, đến một thế giới văn minh, lạ lẫm của loài người. Vì vậy, đây là những ngày khởi đầu thật sự khó khăn đối với “người rừng”.
Nhưng “người rừng” không cần chuyên gia tâm lý, không cần nhà nhân chủng học… như lo lắng của dư luận hiện nay. Họ sẽ tự hòa đồng với cuộc sống mới mà bên cạnh họ là những người thân, họ tộc và cộng đồng người Cor bản địa đã từng và sẽ yêu thương, gắn bó, gần gũi họ như từ bao đời nay.