Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất thời gian gần đây là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đến từ đâu? Đàn ông xuất hiện trước hay người phụ nữ xuất hiện trước?
Trước sự phát triển của khoa học hiện đại, loài người đã sử dụng những huyền thoại, truyền thuyết để “suy đoán” về nguồn gốc của mình. Các nhóm dân tộc khác nhau trên khắp thế giới đều có những huyền thoại và câu chuyện tương tự nhau, qua đó tình cảm dân tộc hoặc niềm tin tôn giáo có thể được hình thành. “Thuyết nguồn gốc Adam và Eva” của phương Tây và “thuyết Nữ Oa tạo ra con người” của Trung Quốc là những đại diện tiêu biểu.
Sau sự phát triển của khoa học hiện đại, trình độ khảo cổ học, giải phẫu và công nghệ phát hiện DNA đã trở nên tinh vi hơn, nguồn gốc của loài người cũng được phỏng đoán một cách khoa học hơn. Thuyết tiến hóa được giới học thuật và nhân dân chấp nhận rộng rãi nhất.
Các sinh vật trên trái đất, từ vô cơ đến hữu cơ, từ sinh vật đơn bào đến sinh vật đa bào, từ sinh vật thấp đến cao, các nguyên mẫu cây tiến hóa sinh học dần dần xuất hiện, và theo quá trình nghiên cứu ngày càng hoàn thiện hơn. Là loài động vật cao nhất, con người đứng đầu cây tiến hóa, điều này càng cho thấy rằng con người, giống như những loài động vật khác, đã tiến hóa từ những sinh vật thấp nhất.
Để khám phá chủ đề người phụ nữ đầu tiên đến từ đâu, chúng ta phải phân tích nó từ hai khía cạnh: giới tính và ngoại hình con người.
Giới tính có thể đề cập đến nam và nữ ở người, nam và nữ ở động vật và được phân biệt bằng sự khác biệt về mặt giải phẫu và sinh lý. Cho dù đó là sự kết hợp giữa nam và nữ, hay sự giao phối giữa động vật đực và cái, thì đó đều là một quá trình sinh sản hữu tính.
Nguồn gốc của sinh sản hữu tính là một vấn đề tưởng chừng như đơn giản nhưng lại chưa có kết luận chắc chắn. Tại sao giới tính lại tiến hóa cũng là một bí ẩn lớn trong thuyết tiến hóa. Tuy nhiên, vẫn còn những dấu vết trong quá trình tiến hóa của giới tính con người.
Sau khi hình thành đại dương trên trái đất, nhiều dạng sống khác nhau dần dần xuất hiện trong đại dương, đầu tiên là sinh vật nhân sơ xuất hiện, sau đó là sinh vật nhân chuẩn xuất hiện.
Ngay sau khi sinh vật nhân chuẩn được tạo ra, quá trình sinh sản sinh học xuất hiện. Các nhà khoa học đã tìm thấy hóa thạch của bào tử tứ bội được tạo ra bởi quá trình giảm phân thực vật ở vùng đá lửa mùa xuân cổ xưa ở miền trung nước Úc. Tuổi của hóa thạch là khoảng 1 tỷ năm. Vì vậy, các nhà khoa học suy đoán rằng sinh sản hữu tính lẽ ra phải bắt nguồn trước sự phân hóa của động vật và thực vật. Khi sinh sản hữu tính xảy ra, có sự phân biệt giới tính giữa các sinh vật sống.
Trải qua vô số lần sinh sản, đột biến và tiến hóa, một số lượng lớn sinh vật có xương sống đã xuất hiện trong đại dương. Trong kỷ Devon, một loại cá gọi là cá vây xuất hiện. Nhóm của họ không thể có đủ tài nguyên trong đại dương và dần dần di chuyển vào đất liền.
Sau quá trình tiến hóa gian khổ, loài cá vây thịt sống ngoài nước trong một thời gian dài dần dần tiến hóa thành động vật có xương sống trên cạn thuộc loại động vật bốn chân. Các sinh vật trên cạn của động vật bốn chân dần dần tiến hóa thành loài bò sát và lưỡng cư, còn loài bò sát tiến hóa thành động vật có vú.
Động vật có vú dần dần tiến hóa thành loài linh trưởng, và nhánh linh trưởng tiến hóa thành loài vượn cổ đại.
Những loài động vật có vú sớm nhất trên trái đất sống cùng thời đại với khủng long, xuất hiện khoảng 230 triệu năm trước, trong khi tổ tiên chung của loài linh trưởng là khỉ Purgatori chỉ xuất hiện cách đây 85 triệu năm. 65 triệu năm trước, một tiểu hành tinh đã va vào trái đất và gây ra sự tuyệt chủng của loài khủng long. Tổ tiên linh trưởng khỉ Purgatori đã thoát khỏi thảm họa này.
Do môi trường khác nhau của khỉ Purgatori, hai nhánh đã tiến hóa, họ khỉ và họ hình người. Đười ươi tiến hóa thành Gibbonidae và Đười ươi, và Đười ươi tiến hóa thành phân họ Đười ươi và phân họ Hominid. Lúc này phải kể đến một loài thuộc phân họ Hominid là Australopithecus.
Năm 1974, các nhà khảo cổ học phát hiện một mẫu hóa thạch của một người cổ đại cách đây 3,2 triệu năm ở Đông Phi và đặt tên là Lucy. Bộ xương của Lucy có năng lực não tương tự như loài vượn người và cách đi bằng hai chân tương tự như con người, kết hợp những đặc điểm của người hiện đại và tinh tinh. Khám phá của Lucy là một cột mốc quan trọng trong ngành cổ sinh vật học trên thế giới. Ba năm sau khi được phát hiện, Lucy và bộ tộc được đặt tên chính thức là Alpha Australopithecus.
Australopithecus là một loài người đang tiến hóa, là loài chuyển tiếp từ vượn sang tiến hóa loài người. Nó nằm giữa loài khỉ cổ đại châu Phi và loài Homo sapiens. Nó được hình thành sau khi loài vượn cổ đại châu Phi sống và tiến hóa trên đồng cỏ sau khi chúng bước ra khỏi môi trường sống trong rừng nguyên sinh.
Các sinh vật trong quá trình tiến hóa này tiếp tục sinh sản hữu tính và được chia thành con cái và con đực. Vậy khi Homo sapiens tiến hóa thì Homo sapiens cũng có quan hệ tình dục. Quá trình tiến hóa là sự đồng tiến hóa của nam và nữ, và quá trình này không thể được thực hiện ở hai bên.
Từ quá trình hình thành của Homo sapiens, chúng ta có thể thấy rằng quá trình tiến hóa của Homo sapiens không diễn ra chỉ trong một đêm. Điều đó không có nghĩa là Homo sapiens đột nhiên xuất hiện trên thế giới, sau đó Homo sapiens sinh ra con cái và trở thành người hiện đại.
Sự xuất hiện của một loài hay một chủng tộc đòi hỏi quá trình tiến hóa lâu dài và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Gen của vô số cá thể trong một quần thể tiếp tục trải qua các đột biến và khi chúng tích lũy đến một mức độ nhất định, sự phân lập sinh sản xảy ra, một gen mới sẽ được xem xét. Ví dụ, nếu chỉ có một loài vượn cổ đại châu Phi rời khỏi châu Phi thì nó sẽ không bao giờ tiến hóa thành một nhóm hoàn chỉnh.
Vì vậy, chúng ta không thể nói chính xác liệu đột biến gen đầu tiên là nam hay nữ, do đó không thể xác định được con người đầu tiên là nam hay nữ. Nhưng điều chắc chắn là cả con đực và con cái đầu tiên đều tiến hóa từ Homo sapiens. Hơn nữa, nếu không có con đực đầu tiên thì dù có con cái đầu tiên cũng không thể sinh ra con cái và ngược lại.
Homo sapiens được chia thành Homo sapiens sớm và Homo sapiens muộn. Homo sapiens muộn còn được gọi là con người mới, sống cách đây từ 50.000 đến 10.000 năm. Người hiện đại thuộc về Homo sapiens quá cố.
Những người Homo sapiens quá cố luôn sống ở Châu Phi. 200.000 năm trước, loài Homo sapiens quá cố đã bắt đầu cố gắng rời khỏi Châu Phi nhưng thất bại và không để lại con cháu. Nhưng 60.000 đến 70.000 năm trước, Homo sapiens lại cố gắng rời khỏi Châu Phi và lần này họ đã thành công.
Homo sapiens đến từ Châu Phi không chỉ phát triển các cấu trúc cơ thể mới mà với khả năng não bộ không ngừng tăng lên, họ còn tạo ra nhiều công cụ phức tạp tùy theo điều kiện địa phương. Cùng với lợi thế sống theo bầy đàn, họ dần chiếm được ưu thế trong cuộc cạnh tranh sinh tồn.
Khi Homo sapiens lần đầu tiên rời Châu Phi, da của họ vẫn có màu nâu sẫm, nhưng do môi trường địa lý, khí hậu và các lý do khác, Homo sapiens ở các vùng khác nhau đã có đột biến gen dẫn đến màu da khác nhau, dẫn đến màu da vàng, trắng như hiện nay.
Thuyết tiến hóa có thể nói là thuyết có cơ sở khoa học và lý luận nhất trên thế giới. Nó có thể suy luận đại khái về quá trình xuất hiện của con người và các loài hiện có. Nhưng dù vậy, hầu hết mọi người vẫn không tin vào thuyết tiến hóa.