Cá cóc Tam Đảo Paramesotriton deloustali là loài có số lượng cá thể nhiều nhất được tìm thấy ở Việt Nam (trong 5 loài Cá cóc được ghi nhận ở Việt Nam). Có cơ thể dài giống như thằn lằn, chúng có đuôi dẹp và da thiếu vảy. Trên da cá cóc Tam Đảo có nhiều mụn cóc xù xì và tiết chất nhầy, những mụn cóc này thường mọc thành dãy dọc sống lưng kéo dài tới đuôi. Lưng cá cóc Tam Đảo có màu đen. Bụng màu đỏ có những đường xám đen nối với nhau tạo thành hình mạng vân đỏ. Chiều dài cá cóc Tam Đảo khoảng 144 - 206, 5mm.
Cá cóc Tam Đảo ăn sâu bọ, nhện giun, nòng nọc, ếch nhái con và rong rêu. chúng giao phối vào tháng 3 - 4 bằng cách cuốn đuôi và ép lỗ sinh dục vào nhau.
Cá cóc Tam Đảo sống ở các suối chảy chậm và hồ nước ở vùng núi ở Vườn quốc gia Tam Đảo. Chúng ưa sống ở những vực nước sâu và trong, hoạt động và kiếm ăn ban ngày. Đây là loài đặc hữu chỉ tìm thấy ở Việt Nam nên chúng rất có giá trị về khoa học.
Cá cóc Tam Đảo được tìm thấy từ năm 1934. Các nhà khoa học cho rằng chúng có thể là loài hậu duệ của khủng long còn sót lại. Chúng phải biến đổi hình dạng, kích cỡ và chọn những vùng chia cắt, hẻo lánh để tồn tại. Trong danh mục thực vật, động vật rừng quý hiếm của Việt Nam, cá cóc Tam Đảo là thành viên số 36. Vị trí này đã ghi nhận sự đặc biệt của loài cá đặc hữu chỉ có ở Tam Đảo.
Sách đỏ Việt Nam (trang 235) ghi rõ: Cá cóc Tam Đảo có tên khoa học là Paramesotriton deloustali, thuộc họ cá cóc Salamandridae, Bộ Nhái ếch có đuôi Caudata. Cấp độ nguy cấp bậc E (sắp tuyệt chủng). Nó được ghi nhận là một trong năm loài cá cóc Việt Nam, theo chương trình hợp tác nghiên cứu về đa dạng sinh học ở Việt Nam giữa Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật với Bảo tàng động vật Konic Bon (Đức).
Cá cóc Tam Đảo còn được gọi là tắc kè nước, sa giông bụng hoa hay cá cóc bụng hoa. Ngoài ra, cá cóc Tam Đảo cũng được chính phủ xếp vào nhóm 1B (những loài cần bảo vệ đặc biệt, cấm hoàn toàn việc khai thác) trong phụ lục IB Nghị định 32/2002/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ Việt Nam.
Cá cóc cái đẻ nhiều lần trong một vụ, đẻ cả ban ngày và ban đêm, mỗi lần đẻ với số lượng trứng rất khác nhau (từ 2 - 36 quả). Tỷ lệ nở của trứng và sự phát triển của nòng nọc phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ môi trường, nhiệt độ thích hợp nhất từ 17 độ C- 27 độ C. Nòng nọc có mầu đen, có mang ngoài mầu đỏ hồng ở hai bên mang tai, bụng sáng và sau quãng 2 tháng ngả vàng và xuất hiện những mạng lưới đen như họa tiết ở bụng con trưởng thành. Mang ngoài tiêu dần và biến mất ở tháng 4 - 5, ở giai đoạn này cá cóc thường bò lên cạn (trong tự nhiên giai đoạn này vẫn chưa được nghiên cứu kỹ).
Tuy nhiên trong nhiều năm trở lại đây nạn săn bắt loài này để sử dụng vì mục đích đông dược đã biến quần thể đông đúc của chúng đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng hoàn toàn. Mặc dù đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam và các văn bản pháp qui của nhà nước về cấm săn bắt loài này nhưng chúng không tránh khỏi bàn tay hủy diệt của con người. Sau rất nhiều lần điều tra và tìm kiếm một vài cá thể của chúng để truyền tải các thông tin về loài này trên giúp cho mọi người có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp và hình thù kỳ lạ của loài này. Nhưng cho mãi đến gần đây loài Cá cóc quí hiếm này mới tìm thấy trong thiên nhiên hoang dã ở Vườn quốc gia Tam Đảo.