Tặng cho, để lại thừa kế quyền sử dụng đất cho con là hình thức chuyển quyền sử dụng đất từ cha mẹ cho con. Trong đó, tặng cho đất đai là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên tặng cho quyền sử dụng đất của mình cùng diện tích thửa đất cho bên được tặng cho mà không yêu cầu thanh toán. Đây là một trong những hình thức chuyển quyền sử dụng đất.
Hiện nay phổ biến giao dịch tặng cho nhà đất thực hiện giữa những chủ thể có quan hệ huyết thống; nuôi dưỡng, hôn nhân trong gia đình.
Việc con có biểu hiện như không kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, thậm chí còn xúc phạm danh dự, nhân phẩm,… từ đó dẫn tới mâu thuẫn giữa cha mẹ và con. Dù vậy cha mẹ cũng không có quyền lấy lại đất đã tặng cho vì những lý do sau đây:
Cha mẹ không có quyền lấy lại đất đã tặng cho (Ảnh minh họa)
(1) Các bên tặng cho tự nguyện, không lừa dối, cưỡng ép nên không có căn cứ để Tòa án tuyên vô hiệu.
(2) Việc tặng cho đã hoàn tất và đã có hiệu lực.
Việc tặng cho quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Nghĩa là việc tặng cho đã hoàn tất kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Nội dung này được quy định rõ tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013, cụ thể:
“3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
Mặc dù đây là quy định có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 nhưng Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai trước đó đều thống nhất quy định như trên.
Ngoài ra, trong chứng thư pháp lý là Giấy chứng nhận (Sổ đỏ, Sổ hồng) không thể hiện quyền được lấy lại đất sau khi sang tên, cụ thể:
(Ảnh minh họa)
Mẫu Giấy chứng nhận theo Thông tư 23/2014/TT-BTNMT gồm có 04 trang:
- Trang 1 gồm Quốc hiệu, Quốc huy và dòng chữ “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” in màu đỏ; mục “I. Tên người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” và số seri gồm 02 chữ cái tiếng Việt và 06 chữ số, được in màu đen; dấu nổi của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Trang 2 in chữ màu đen gồm mục “II. Thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
- Trang 3 in chữ màu đen gồm mục “III. Sơ đồ thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” và mục “IV. Những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận”.
- Trang 4 in chữ màu đen gồm nội dung tiếp theo của mục “IV. Những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận”; nội dung lưu ý đối với người được cấp Giấy chứng nhận; mã vạch.
(Ảnh minh họa)
- Trang bổ sung Giấy chứng nhận in chữ màu đen gồm dòng chữ “Trang bổ sung Giấy chứng nhận”; số hiệu thửa đất; số phát hành Giấy chứng nhận; số vào sổ cấp Giấy chứng nhận và mục “IV. Những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận” như trang 4 của Giấy chứng nhận.
Ngay cả các mẫu Giấy chứng nhận trước đó đều không thể hiện nội dung được lấy lại đất sau khi việc tặng cho đã có hiệu lực.
Tóm lại, dù con cái có thay đổi tính nết thì cha mẹ cũng không có quyền lấy lại đất, trừ một số trường hợp như tặng cho bằng lời nói, chưa đăng ký,… (trên thực tế có nhiều trường hợp phức tạp, không thỏa mãn các điều kiện để việc tặng cho có hiệu lực thì vẫn “có thể” lấy lại đất).