Câu trả lời được các nhà sử học đưa ra thực chất là do ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp cổ đại.
Một giáo sư tại Trường Lịch sử và Văn hóa thuộc Đại học Sư phạm Thiểm Tây, Trung Quốc chỉ ra rằng, sư tử được đưa vào vùng đồng bằng Trung tâm vào thời nhà Hán hoặc trước thời nhà Hán, và cả sư tử lẫn tên gọi ban đầu của sư tử "車 犊" tất cả là các phiên âm tiếng nước ngoài, trong đó sư tử được cho là đến từ tiếng Serb "sarvainai", và sau này nhà nước Ba Tư đã tôn vinh con bọ cạp, và tên của nó bị ảnh hưởng bởi tiếng Ba Tư "shir" và được đổi tên thành sư tử.
Lúc đầu, tượng sư tử đá thời Đông Hán rất giống tượng sư tử ở Tây Á, tuy nhiên, thời gian trôi qua, những người thợ làm tượng sư tử đá trạm khắc càng ngày càng mất hình dạng sư tử thật. Điều thú vị hơn là sư tử cái thật không có bờm, nhưng những người thợ thủ công cổ đại không biết phân biệt giới tính của sư tử đá, nên họ đã đặc biệt phát minh ra một số đặc điểm, bao gồm cả con đực bên trái và con cái bên phải.
Giáo sư của Trường Lịch sử và Văn hóa thuộc Đại học Sư phạm Thiểm Tây, Trung Quốc chỉ ra rằng, hình tượng sư tử là dũng mãnh nên người xưa rất thích đặt tượng sư tử đá ở cửa để xua đuổi tà ma.
Ngoài tác dụng trang trí, tượng sư tử đá còn tượng trưng cho sự dũng cảm, chịu ảnh hưởng chủ yếu của nền văn hóa Hy Lạp cổ đại, ví dụ như trong các bức tượng gốm thời Đường có thể thấy nhiều hình tượng đội mũ da sư tử hoặc mũ da hổ. Hình tượng anh hùng có từ thời Hy Lạp cổ đại.
Về sau, tượng sư tử đá còn có nguồn gốc là để xua đuổi tà ma, bởi từ xa xưa xã hội Trung Quốc đã có tục gọi là “cấm kỵ cầm thú”, để ngăn chặn tà ma xâm nhập vào dinh thự thì phải dựa vào hung khí hơn. Các hình tượng, chẳng hạn như các vị thần; ngoài ra, họ có thể dựa vào những con thú dữ, chẳng hạn như sư tử, hổ và các con thú thần thoại... có thể chịu trách nhiệm của việc canh giữ cửa.
Tại sao kiến trúc cổ Trung Quốc thường có sư tử đá? Theo văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục xưa, ở cổng cung điện, nha môn, lăng mộ, miếu đường, viên lâm, cầu lớn hoặc gia trạch lớn… người ta thường đặt đôi sư tử đá để trấn trạch. Trong các thư tịch cổ cũng có ghi chép, coi bằng sách Văn kiến ngẫu lục của Chu Tượng Hiền đời Thanh có chép: “Ở ngoài cổng hai bên trái phải của các cung điện, nha môn thời nay có đặt tượng thú bằng đá, tóc uốn mắt lớn, nhe nanh múa vuốt, thường được gọi là: Sư tử đá“. Sư tử đá đặt bên ngoài cổng cung điện, nha môn... Theo văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục xưa, ở cổng cung điện, nha môn, lăng mộ, miếu đường, viên lâm, cầu lớn hoặc gia trạch lớn… người ta thường đặt đôi sư tử đá để trấn trạch. ( Nguồn gốc của sư tử và sự liên quan giữa sư tử với đạo Phật Sư tử là mãnh thú mạnh khỏe, lông màu nâu vàng. Sư tử đực cổ có lông dài gọi là bờm, tiếng gầm vang rền. Sư tử sống ở châu Phi và vùng phía Tây Á Châu. Chúng thường săn bắt và ăn thịt các động vật lớn như ngựa vằn, hươu cao cổ, linh dương… nên được mệnh danh là “Vua của các loài thú”. Theo lịch sử ghi chép, Hán Vũ Đế sai Trương Khiên đi sứ Tây Vực, mở ra con đường nối thông với các nước Tây Vực. Sách Hậu Hán thư có chép: “Năm Chương Hòa đầu tiên đời Chương Đế, nước An Tức đi sứ dâng sư tử và phù bạt. Phù bạt hình dáng như kỳ lân nhưng không có sừng“. Cùng với quá trình đạo Phật truyền vào Trung Quốc thì sư tử đã từng bước một thay chỗ địa vị “Vua các loài thú” của hổ. Trong tác phẩm Truyền đăng lục của tăng nhân đời Tống là Đạo Nguyên có viết: “Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, một tay Ngài chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, nói như sư tử gầm rằng: Trên trời dưới đất, duy ngã độc tôn“. Sau này cụm từ “Sư tử gầm” được dùng để mô tả âm thanh vang rền khi Phật Đà thuyết Pháp, có mang thần uy chấn nhiếp toàn bộ tà thuyết trần tục. Vì thế địa vị sư tử trong đạo Phật cũng ngày càng trở nên quan trọng, được các tín đồ đạo Phật coi là Thần thú cát tường, đường bệ uy dũng. |