Cũng vì lẽ ấy, có không ít những vị Hoàng đế đã cậy vào quyền lực tột đỉnh của mình mà gây ra những chuyện loạn luân tai tiếng tới cả ngàn năm…
Từ những ông vua trăm mưu ngàn kế cưỡng đoạt con dâu
Sở hữu tam cung lục viện với bạt ngàn những mỹ nữ, vì vậy, chuyện loạn luân thường xảy ra nhất trong chốn hậu cung của các Hoàng đế cổ đại Trung Quốc có lẽ là chuyện cha cướp vợ của con. Coi mình là “con trời”, là kẻ thống trị và sở hữu cả thiên hạ, thành ra, một khi các vị Hoàng đế đã “vừa mắt” thì họ bất chấp tất cả để có thể đưa những cô con dâu xinh đẹp vào cung hầu hạ.
Tuy nhiên, vào thời phong kiến, việc “sủng hạnh” con dâu là việc không lấy gì làm vẻ vang và phù hợp với luân thường đạo lý. Do vậy, để có thể chiếm đoạt được người đẹp, các Hoàng đế cũng phải tìm đủ trăm phương ngàn kế.
Chuyện Hoàng đế “cướp con dâu” nổi tiếng nhất có lẽ phải kể tới Đường Minh Hoàng, ông vua đa tình nổi tiếng trong lịch sử triều đại nhà Đường. Nhắc tới Đường Minh Hoàng, hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay tới câu chuyện tình giữa vị Hoàng đế này với mỹ nhân Dương Ngọc Hoàn, hay còn gọi là Dương Quý phi, câu chuyện tình từng làm tốn nhiều giấy mực của các sử gia cũng như các thi sỹ, văn nhân từ cổ chí kim.
Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, Dương Ngọc Hoàn không phải là một quý phi được tuyển vào cung theo cách “truyền thống” mà vốn là con dâu được cưới gả đàng hoàng của ông vua đa tình này.
Dương Ngọc Hoàn sinh vào năm 719, quê gốc ở tỉnh Tứ Xuyên nhưng vì cha mẹ mất sớm nên được gửi đến sống tại nhà bác ruột ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Đường. Năm Khai Nguyên thứ 23, tức năm 736, trong một cuộc tuyển chọn mỹ nữ cho ngôi vị Vương phi, Vũ Huệ Phi, một phi tần của Đường Minh Hoàng đã chọn Ngọc Hoàn làm vợ của hoàng tử thứ 18 là Thọ Vương Lý Mạo.
Dương Ngọc Hoàn trở thành Thọ Vương phi năm 17 tuổi. Như vậy, xét về thân phận và vai vế, Dương Ngọc Hoàn là con dâu chính thức của Đường Minh Hoàng. Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn sau đó, cũng chính cô con dâu xinh đẹp này lại trở thành ái thiếp trên long sàng của Đường Minh Hoàng.
Sự việc bắt đầu khi Vũ Huệ Phi, ái thiếp được sủng ái nhất trong số 59 cung phi của Đường Minh Hoàng qua đời vì bạo bệnh. Đường Minh Hoàng vì vậy rất buồn rầu, ngày đêm không ăn không ngủ. Chủ buồn phiền, tất đầy tớ phải lo. Vì vậy, bọn thái giám hầu cận Đường Minh Hoàng, nhất là Cao Lực Sỹ chạy vạy khắp nơi, tìm đủ mọi cách để giải khuây cho chủ. Một hôm, khi qua phủ Thọ Vương, Cao Lực Sỹ nhìn thấy Thọ Vương Phi nhan sắc hơn người thì mừng lắm, nghĩ rằng, cô gái này có thể thay thế vị trí của Vũ Huệ Phi trong hậu cung của Đường Minh Hoàng.
Nhân buổi hầu vua, Cao Lực Sỹ nói với Đường Huyền Tông rằng, Thọ Vương Phi nhan sắc tuyệt trần có thể nói là “khuynh nước khuynh thành” và nhất là dung mạo rất giống với Vũ Huệ Phi vừa mất. Việc Dương Ngọc Hoàn có giống với Vũ Huệ Phi hay không thì không ai biết, tuy nhiên, Huyền Tông vì lời tiến cử của cận thần Cao Lực Sĩ cũng cảm thấy rất tò mò. Huyền Tông sai họ Cao truyền chỉ triệu Thọ Vương Phi vào cung Ôn Tuyền để xem tận mắt. Người ta nói rằng, ngay từ lần gặp đầu tiên ở cung Ôn Tuyền, Đường Minh Hoàng đã chết mê chết mệt cô con dâu họ Dương. Đường Minh Hoàng rất muốn có được người đẹp, tuy nhiên, Ngọc Hoàn đã là gái có chồng, mà theo danh phận chính thức thì lại là con dâu của Huyền Tông. Vì vậy, thân là một Hoàng đế, Đường Minh Hoàng không thể ngang nhiên cướp vợ của con “giữa ban ngày” được. Nhưng cũng vì thế mà Huyền Tông lại đâm ra buồn phiền, mất ăn mất ngủ. Lúc này, Cao Lực Sĩ lại thay Huyền Tông nghĩ ra một cách “thập toàn thập mỹ”. Theo kế sách của Cao Lực Sỹ, Đường Minh Hoàng hạ lệnh cho Ngọc Hoàn làm ni cô trong chùa để tỏ lòng hiếu thuận với Vũ Huệ Phi vừa mất. Một thời gian sau, khi mọi người đã quên mất vị Thọ Vương Phi xinh đẹp, Đường Huyền Tông mới sai người bí mật đưa Dương Ngọc Hoàn vào cung, phong làm Dương Quý Phi. Từ đó, Huyền Tông cùng Dương Ngọc Hoàn ngày đêm quấn quýt bên nhau. Câu chuyện tình huyền thoại và đình đám giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi nổi tiếng trong lịch sử cũng bắt đầu từ đó. Thực ra, chẳng phải chờ tới thời nhà Đường mới có chuyện Hoàng đế cướp vợ của con. Từ thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, đã có những vị quân vương vì người đẹp mà sẵn sàng giết chết cả con trai ruột của mình.
Người đầu tiên chính là Sở Bình Vương, ông vua của nước Sở. Vì muốn kết thân với nước Tần khi đó đang rất mạnh, Sở Bình Vương mới sai sứ giả mang vàng bạc sang hỏi công chúa nước Tần là Mạnh Doanh cho Thái tử Kiến, con trai của mình.
Khi sứ giả trở về, Sở Bình Vương hỏi: “Nhà người đã trông thấy mặt công chúa chưa? Nhan sắc thế nào?” Vị quan trả lời: “Mắt thần nhìn gái đẹp đã nhiều nhưng chưa từng thấy ai đẹp như nàng Mạnh Doanh. Trong cung nước Sở chẳng có ai sánh kịp đã đành, ngay những trang tuyệt sắc ngày xưa như Đắc Kỷ, Ly Cơ e rằng cũng chỉ là tiếng đồn mà thôi, chứ so ra thì nàng Mạnh Doanh đẹp muôn phần họ chưa chắc đã được một”. Nghe vị quan nói vậy, Sở Bình Vương buồn rầu rồi than rằng: “Ta làm vua làm gì cho uổng. Không được gặp người đẹp ấy cũng phí một đời”.
Nghe thấy Sở Bình Vương than thở như vậy, vị quan nọ mới bày cách cho vua khi đón nàng Mạnh Doanh về nước Sở thì đưa thẳng vào hậu cung của mình rồi dùng một cô gái khác mạo danh là Mạnh Doanh đưa vào cung của thái tử Kiến. Thái tử Kiến chưa bao giờ gặp công chúa Mạnh Doanh vì vậy chắc chắn sẽ không biết việc này. Mặc dù cũng thấy chuyện đánh tráo vợ của con này không hợp với luân thường, nhưng vì muốn sở hữu người đẹp, Sở Bình Vương quyết định nghe theo lời của tên cận thần.
Sợ thái tử Kiến phát hiện chuyện đánh tráo nên từ khi có được người đẹp Mạnh Doanh, Sở Bình Vương cấm tiệt không cho phép thái tử tùy tiện vào cung. Sau đó, vẫn sợ mọi chuyện sẽ bại lộ, Sở Bình Vương mới sai thái tử Kiến đi trấn giữ tận vùng biên ải xa xôi. Còn hoàng hậu, mẹ thái tử Kiến bị Sở Bình Vương phế bỏ rồi lập nàng Mạnh Doanh xinh đẹp lên làm hoàng hậu.
Cô con dâu xinh đẹp là Mạnh Doanh không biết là bị đổi chồng nhưng chẳng hiểu vì chuyện gì khuôn mặt lúc nào cũng buồn rầu. Sở Bình Vương không đành lòng nhìn người đẹp mày châu ủ rột mới hỏi rõ nguồn cơn thì nàng đáp: “Thiếp vẫn mơ tưởng lấy chồng thì vợ chồng vừa đôi phải lứa với nhau. Khi vào cung thiếp mới biết bệ hạ đã nhiều tuổi. Thiếp không dám oán bệ hạ, chỉ hận là mình sinh sau đẻ muộn quá!” Nhà vua nghe xong nói: “Ta dù già nhưng nàng lấy được ta thì được làm chánh hậu sớm đến mấy năm”.
Nghe thấy lạ, Mạnh Doanh mới dò hỏi các cung nữ mới biết chuyện đánh tráo con dâu của Sở Bình Vương. Mạnh Doanh buồn rầu cứ khóc thầm mãi. Về sau, Sở Bình Vương hứa sẽ lập con trai nàng làm thái tử, nàng mới nguôi dần. Tuy nhiên, để lập con của Mạnh Doanh làm thái tử, Sở Bình Vương buộc phải phế bỏ ngôi vị thái tử của Thái tử Kiến. Thế là, Sở Bình Vương để chiều lòng người đẹp và có lẽ cũng để khỏi ngượng mặt với đứa con bị mình cướp mất vợ nên đã gán cho Thái tử Kiến tội làm phản, cho người truy sát khắp nơi rồi giết chết.
Một ông vua khác cũng vì người đẹp mà giết cả con ruột của mình là Vệ Tuyên Công. Khi chưa lên ngôi vua, Vệ Tuyên Công đã vụng trộm với một người thiếp của cha mình là Di Khương. Đến khi lên ngôi, Tuyên Công bất chấp mọi lời can ngăn của quần thần, lập Di Phương làm Chính phi rồi phong cho con trai của Di Khương là Cấp Tử làm Thái tử.
Đến năm Cấp Tử được 16 tuổi, Vệ Tuyên Công cho người sang hỏi cưới Công chúa nước Tề là nàng Tuyên Khương về làm Thái tử phi. Tuy nhiên, tới khi nghe nói rằng nàng Tuyên Khương là một mỹ nữ nhan sắc tuyệt trần thì Vệ Tuyên Công lại không thể kiềm chế được dục vọng của mình và quyết định chiếm cô con dâu tương lai về làm của riêng.
Vệ Tuyên Công sai người làm một cái đài thật đẹp gọi là Tân Đài rồi cho đưa nàng Tuyên Khương lên ở trên đó. Để thuận tiện cho việc chiếm đoạt con dâu, Vệ Tuyên Công sai Cấp Tử đi sứ nước Tống còn mình thì về Tân Đài ăn ở như vợ chồng với Tuyên Khương. Khi Cấp Tử đi sứ trở về thì thái tử phi vợ mình nay đã trở thành mẹ kế, thứ phi của vua cha mình. Tuy nhiên, tấn bi kịch của ông vua hoang dâm vô độ này chưa dừng lại ở đó.
Ăn ở với Vệ Tuyên Công, Tuyên Khương sinh được hai người con trai. Vì muốn giành ngôi thế tử kế thừa ngai báu nước Vệ cho con trai mình lại ngại vì chuyện từng là vợ nay lại thành mẹ kế nên Tuyên Khương tìm mọi cách để giết Cấp Tử. Tuyên Khương nói với Vệ Tuyên Công rằng: “Cấp Tử cố tình làm nhục thiếp. Nó nói ‘mẹ ta là vợ của ông nội mà cha ta còn lấy được huống hồ Tuyên Khương vốn thực là vợ ta, chẳng lẽ ta không lấy được sao, chẳng qua ta chỉ cho cha mượn đỡ mà thôi”.
Nghe dèm pha nhiều lần, Vệ Tuyên Công cuối cùng cũng không chịu được sai người đi giết Cấp Tử. Con của Tuyên Khương là công tử Thọ không ngăn được bèn lập mưu lừa bọn sát thủ để chết thay anh. Cấp Tử biết chuyện, đau đớn quá, cũng tự giơ đầu cho chúng chém nốt.
Vệ Tuyên công nghe tin cả hai con trai đều bị giết thì ngã vật ra giữa long sàng, kêu lớn: “Đứa con gái nước Tề đã hại cả nhà ta rồi”. Từ đó Tuyên Công sinh bệnh, chỉ nửa tháng là chết trong sự buồn phiền và uất giận đối với Tuyên Khương. Nhưng có lẽ ông vua nước Vệ quên mất rằng, không phải Tuyên Khương mà chính sự dâm loạn và ngu tối của ông ta mới là nguyên nhân dẫn tới bi kịch.
Và những vị Hoàng đế “yêu” mẹ kế lẫn cô ruột
Quá nhiều mỹ nữ trong hậu cung khiến các vị Thiên tử ngày đêm “trăm công ngàn việc” không thể quản lý hết những cô gái đang ở độ tuổi xuân thì rừng rực nhưng lại phải chịu cảnh “phòng không”. Hơn nữa, dù có đề phòng đến mấy, cũng chẳng mấy ai đề phòng chính những đứa con của mình. Thành ra, không ít những vị hoàng tử được yêu chiều đã tìm cách vụng trộm với chính những người mà đáng ra họ phải là là mẹ kế.
Câu chuyện trộm vợ của vua cha nổi tiếng nhất có lẽ là chuyện của Hoàng đế Đường Cao Tông Lý Trị và người mẹ kế bị Lý Trị chiếm đoạt không ai khác chính là vị nữ hoàng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc: Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên vốn tên thật là Võ Chiếu, sinh năm 625, trong một gia đình quý tộc ở tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc.
Theo ghi chép của sử sách, thì Võ Chiếu vào cung của vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân làm tài nhân (người thiếp cấp thứ 5 trong hậu cung) năm 635 khi mới 10 tuổi. Có lẽ vào cung khi còn quá nhỏ, nên Võ Chiếu không được Lý Thế Dân sủng hạnh mà chỉ được làm một người hầu việc bút mực cho Hoàng đế. Thế nhưng không phải vì thế mà Võ Chiếu không được Thái Tông chú ý tới. Thấy tên Võ Chiếu của nàng không hay, Thái Tông bèn đổi tên cho nàng thành Mỵ (với nghĩa là xinh đẹp, dịu dàng), vì vậy, ngày nay người ta còn gọi Võ Tắc Thiên là Võ Mỵ Nương.
Khi Võ Mỵ Nương bước vào tuổi lớn thì cũng là lúc Lý Thế Dân đã về già. Ông vua qua đời ở độ tuổi 50 này có lẽ không có nhiều thời gian để quan tâm đến tâm tư của một người thiếp mới đang ở độ tuổi mới lớn. Chính vì vậy, trong thời gian này, Võ Mỵ Nương bắt đầu để ý đến một người trẻ hơn, đó chính là thái tử Lý Trị.
Dù chỉ kém nhau 3 tuổi, tuy nhiên, về thân phận thì Võ Mỵ Nương là vợ thứ của Đường Thái Tông, nghĩa là mẹ kế của Lý Trị. Vì vậy, lúc bấy giờ mặc dù Lý Trị rất thích Mỵ Nương và muốn chiếm nàng về làm của riêng song chỉ dám giấu kín chuyện đó trong lòng. May sao, tới năm 649, Đường Thái Tông qua đời. Tuy nhiên, theo luật lệ nhà Đường lúc bấy giờ, khi Hoàng đế băng hà thì Võ Mỵ Nương phải xuống tóc, vào chùa Cảm Nghiệp tu hành để tỏ lòng trung trinh với tiên đế.
Nhưng Võ Mỵ Nương chẳng phải đợi lâu. Chỉ hai năm sau đó, nhân một chuyến lên chùa Cảm Nghiệp thắp hương, Cao Tông Lý Trị gặp lại người trong mộng một thời của mình và quyết định đưa nàng trở lại cung. Hành động của Cao Tông đã gặp phải sự ngăn cản quyết liệt của các đại thần. Bởi lẽ, Võ Mỵ Nương dù đã xuống tóc nhưng danh nghĩa vẫn là vợ cũ của Thái Tông, tức mẹ kế của Cao Tông. Nay Cao Tông làm vậy là đưa mẹ kế lên long sàng làm bậy, một hành động không thể chấp nhận theo con mắt của các nhà Nho.
Tuy nhiên, Cao Tông lúc này còn quản gì đến luân thường đạo lý mà các đại thần nhắc tới nữa. Ông vua trẻ vừa mới lên nắm quyền bất chấp tất cả đưa Võ Mỵ Nương về hậu cung phong làm Chiêu nghi. Rồi vài năm sau đó, bằng sự mưu mô và tham vọng của mình, Võ Mỵ Nương đã từ phận Chiêu nghi leo lên ngôi vị Thần phi, Hoàng hậu, Thiên hậu rồi Nữ hoàng. Nhưng đó là chuyện về sau này.
Không chiếm đoạt vợ của cha như Đường Cao Tông, nhưng thành tích của ông vua trẻ Lưu Tử Nghiệp thời Nam Bắc Triều chắc chắn sẽ khiến nhiều người phải lắc đầu lè lưỡi. Lên ngôi khi mới 15 tuổi, nhưng Lưu Tử Nghiệp đã để ý người chị ruột của mình là Công chúa Sơn Âm và tìm cách chiếm đoạt bằng được. Loạn luân với chị ruột đã đành, một thời gian sau đó ông vua trẻ họ Lưu lại tìm mọi cách để đưa người cô ruột của mình vào hậu cung để hầu hạ. Khi cuộc tình chung đụng giữa Lưu Tử Nghiệp và Công chúa Sơn Âm đã nhạt dần, một lần, Sơn Âm nói với Lưu Tử Nghiệp rằng, bệ hạ thì có tam cung lục viện, mỹ nữ hàng đàn trong khi ta thì chỉ có mỗi một phò mã mà thôi như vậy thực không công bằng. Tử Nghiệp thấy Sơn Âm nói có lý, nên sai người tìm cho Sơn Âm hơn 30 người đàn ông tuấn tú khỏe mạnh để cô ta luân phiên hành lạc mua vui. Sau khi thỏa mãn người tình, ông vua 15 tuổi nói với chị mình rằng: “Ta đã làm vừa ý của nàng nhưng nay trong tam cung lục viện thật nhưng chẳng có ai xinh đẹp được như nàng. Khi ta muốn vui vẻ cùng nàng thì nàng lại đang bận vui vẻ với người khác. Vì vậy, giờ nàng phải tìm cho ta một người thay thế, giúp ta có thể vui vẻ, như vậy mới công bằng”. Nghĩ tới nghĩ lui, Sơn Âm nghĩ ngay tới Tân Thái Công chúa rất xinh đẹp có thể khiến Tử Nghiệp thích nên tiến cử ngay với y. Cô Công chúa Tân Thái này vốn là em gái của Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn, cha đẻ của Tử Nghiệp, cũng tức là cô ruột của ông ta. Trước đó Tân Thái Công chúa đã được Hiếu Vũ Đế gả cho Ninh Sóc tướng quân Hà Mại do lập được nhiều công trạng lớn. Vì vậy, giữa thanh thiên bạch nhật, Lưu Tử Nghiệp không thể ngang nhiên chiếm đoạt Tân Thái Công chúa về cho mình được. Tuy nhiên, ông vua háo sắc nào có quan tâm đến chuyện thân sơ hay lễ giáo. Ngay khi được Sơn Âm “tiến cử”, Tử Nghiệp cho mời Tân Thái Công chúa vào cung rồi lưu lại ở đó, không cho về. Sau đó, Tử Nghiệp nhiều lần đến phòng của Tân Thái Công chúa ở suốt nhiều đêm liền không chịu ra ngoài. Tướng quân Hà Mại thấy vợ mình “có đi mà không có về” nên tìm kiếm khắp nơi. Biết chuyện, Lưu Tử Nghiệp bèn cho người mang đến cho Hà Mại một chiếc quan tài nói rằng Tân Thái Công chúa vào cung chơi đã đột tử, nay mang thi thể về trả lại. Hà Mại mở quan tài ra, bên trong quả thực có một thi thể. Tuy nhiên, người nằm trong quan tài không phải là Tân Thái Công chúa mà là của một cung nữ bị Lưu Tử Nghiệp đầu độc chết để thế thân. Hà Mại đương nhiên biết chuyện đánh tráo này, trong lòng rất căm phẫn. Để trả thù, vị tướng quân họ Hà đã âm thầm chiêu mộ thích khách, lập kế hoạch giết chết Lưu Tử Nghiệp đưa Tấn An Vương Lưu Tử Huân lên làm Hoàng đế. Tuy nhiên, kế hoạch chưa được thực hiện thì bị tiết lộ, Lưu Tử Nghiệp sai người giết sạch toàn bộ gia đình Hà Mại. Đến chuyện Thiên tử cùng giường với ba thế hệ Nhiều người nghĩ rằng, chuyện cưỡng đoạt con dâu, hay mẹ kế của những ông vua nói trên đã là chuyện ghê tởm và khó chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, trong chốn hậu cung Trung Quốc cổ đại, nhiều ông vua còn cậy quyền lực chiếm đoạt cả nhiều thế hệ ngay chính những người thân của mình. Chiêu Vũ Đế Lưu Thông là ông vua nhà Hán Triệu, một triều đại của người Hung Nô nổi tiếng dâm loạn. Theo luật lệ của người Hung Nô, khi người cha chết, các bà vợ của cha đều thành mẹ của con trai. Nhưng sau khi lên nối ngôi, để có thể chiếm đoạt những phi tần của cha mình, Lưu Thông cho sửa luật lệ này thành: “Khi cha chết thì vợ cha thành vợ con”. Thế rồi, bất chấp sự phản đối của các đại thần, vị vua này mặc sức hành lạc với các những người mẹ kế xinh đẹp của mình. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả. Một lần, Lưu Thông đến nhà Lưu Diệu, em con chú và cũng là quan trong triều. Lưu Thông nhìn thấy hai người con của Diệu là Lưu Anh, Lưu Nga nhan sắc tuyệt trần, liền hạ lệnh bắt đưa hai cô cháu này nhập cung, dù Lưu Diệu hết lẽ can ngăn. Để hợp thức hóa, ngày hôm sau Lưu Thông đã cho sửa luật cấm lấy người trong họ của người Hung Nô thành “người trong gia tộc có thể lấy nhau”. Sau đó, cũng dựa vào “quy định” này, Lưu Thông không chỉ cưỡng chiếm được hai cô cháu họ, con gái Lưu Diệu, mà sau đó còn đưa cả bốn đứa cháu gái của Diệu vào cung. Theo vai vế, bốn cô này phải gọi Lưu Thông bằng ông bác. Vì thế, Lưu Thông nổi danh trong sử sách về chuyện ba thế hệ cùng chung giường với vua. Thậm chí, sau đó, Lưu Thông còn phong cho Lưu Anh, con gái của Lưu Diệu, cũng tức là cháu gái của mình làm Hoàng hậu bất chấp sự ngăn cản của các đại thần.
Một ông vua khác cũng nổi tiếng về chuyện không kiêng dè bất cứ thứ quy định nào, cứ là mỹ nữ và vừa mắt vua thì đều nạp vào cung để làm phi tần, phục vụ chuyện chăn gối cho vua. Đó chính là Kim Phế Đế Hoàn Nhan Lượng. Hoàn Nhan Lượng từng tuyên bố rằng: “Cuộc đời của ta có 3 việc lớn. Một là việc quốc gia đại sự, tất cả đều do ta quyết định. Hai là cầm quân đi đánh giặc ở nơi xa. Ba là được cưới những cô gái xinh đẹp nhất trong thiên hạ làm vợ”. Vì đặt mục tiêu là có thể lấy tất cả những cô gái xinh đẹp trong thiên hạ về làm vợ, nên Hoàn Nhan Lượng bất kể thân sơ, hễ cứ là mỹ nữ vừa mắt mình đều bắt về cung phục vụ. Thành ra, trong số những mỹ nữ làm phi tần trong hậu cung của Hoàn Nhan Lương không ít là anh chị em họ, các bà thím, bà dì, cháu gái, em vợ cho tới cô ruột. Nguyên nhân là vì, sau khi lên ngôi, Hoàn Nhan Lương vì bảo vệ ngôi báu của mình nên có bao nhiêu người thân thích có khả năng đe dọa ngai vàng là y tìm cách giết sạch. Thế là, tất cả những mỹ nữ từng thuộc về những người họ hàng này nhất loạt bị Hoàn Nhan Lượng nạp vào cung làm phi tần.