Inter Milan là một câu lạc bộ bóng đá Ý ở Milano, Lombardy, được thành lập ngày 09 tháng 3 năm 1908. Tại mùa giải 2011-2012, đội bóng thi đấu tại Serie A, hạng đấu cao nhất của Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý. Sân nhà của đội là Giuseppe Meazza có sức chứa hơn 80.000 chỗ ngồi.
Đội cũng là câu lạc bộ duy nhất tham dự đầy đủ các giải Serie A từ năm 1929 và chưa bao giờ phải xuống chơi ở hạng Serie B. Phòng truyền thống của đội bao gồm với 18 danh hiệu vô địch quốc gia (Scudetto), 7 Cúp quốc gia và 5 Siêu cúp quốc gia. Ở đấu trường quốc tế, Inter Milan cũng sở hữu 9 danh hiệu với 3 chức vô địch Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, 3 Cúp UEFA cùng 9 Cúp Liên lục địa/Cúp thế giới các câu lạc bộ.
Với tổng cộng 39 danh hiệu lớn giành được, Inter là câu lạc bộ giàu thành thích thứ ba của Italia sau Juventus (với 51 danh hiệu) và AC Milan (với 45 danh hiệu).
Theo cuộc thăm dò thực hiện ngày 20 tháng 8 năm 2008 của tờ nhật báo la Repubblica thì Inter Milan là câu lạc bộ có nhiều cổ động viên thứ 2 ở Ý với 14%, xếp sau Juventus (32,5%) và trên đối thủ cùng thành phố là AC Milan (13,6%).
Sân Giuseppe Meazza
Trước Thế chiến thứ nhất
Câu lạc bộ được thành lập ngày 9 tháng 3 năm 1908 sau khi tách ra từ Milan Cricket and Football Club (tiền thân của A.C. Milan). Một nhóm người Ý và Thụy Sĩ (bao gồm Giorgio Muggiani, một họa sỹ - người đã thiết kế logo câu lạc bộ, Bossard, Lana, Bertoloni, De Olma, Enrico Hintermann, Arturo Hintermann, Carlo Hintermann, Pietro Dell'Oro, Hugo và Hans Rietmann, Voelkel, Maner, Wipf, cùng Carlo Ardussi) không hài lòng trước sự thống trị của người Ý trong đội bóng A.C. Milan, đã tách ra và thành lập Internazionale. Từ lúc thành lập, câu lạc bộ mở cửa với các cầu thủ ngoại nên tên gọi ban đầu được giữ đến bây giờ. Biệt hiệu ban đầu của đội trong tiếng địa phương vùng Milano là La Beneamata, sự thương yêu ấp ủ.
Câu lạc bộ giành được chức vô địch quốc gia (scudetto) rất sớm vào năm 1910 và lần thứ hai vào năm 1920. Đội trưởng đồng thời là huấn luyện viên của đội khi đoạt scudetto đầu tiên là Virgilio Fossati, sinh tại Milano và là anh của Giuseppe Fossati (người đã đạt chức vô địch thứ hai cùng Inter). Không may Virgilio Fossati đã bị chết giữa Thế chiến thứ nhất.
Giữa hai thế chiến
Năm 1922 Inter đứng cuối cùng nhóm B của Giải vô địch Italia - Serie A chỉ thu được 11 điểm trong mùa giải. Vị trí cuối cùng này đồng nghĩa với 1 suất xuống hạng nhưng do một số thủ thuật họ lại tiếp tục thi đấu ở Serie A và đến nay là đội duy nhất chưa từng xuống hạng.
Trong suốt thời kì hỗn loạn giữa Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, Internazionale bị buộc đổi tên thành Ambrosiana-Inter với mục đích thỏa mãn yêu cầu của chế độ phát xít của Benito Mussolini, họ mặc áo mầu trắng với 1 chữ thập đỏ trên áo. Tuy nhiên, Inter vẫn ở trên con đường chiến thắng và giành được chức vô địch lần thứ ba tại giải hạng nhất Ý mới vào năm 1930. Tiếp theo đó, danh hiệu thứ tư giành được vào năm 1938, chức vô địch lần đầu cúp quốc gia (Coppa Italia) và vô địch lần thứ năm vào năm 1940. Từ 1945, cái tên Ambrosiana-Inter được bỏ và thay bằng tên gọi ban đầu Internazionale Milano.
La Grande Inter (Inter vĩ đại)
Sau chiến tranh, Inter giành được chức vô địch lần thứ sáu vào năm 1953 và lần thứ bảy năm 1954. Tiếp theo những danh hiệu này, Inter bước vào những năm tháng đẹp nhất trong lịch sử câu lạc bộ, được trìu mến gọi là thời kì của La Grande Inter (hay "Inter vĩ đại"). Trong suốt thời kì tuyệt diệu đó, câu lạc bộ giành được 3 chức vô địch quốc gia vào các năm 1963, 1965 & 1966. Thành tích lớn nhất trong thập niên đó là việc Inter hai lần liên tiếp vô địch cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu (Cúp C1). Vào năm 1964, Inter giành chức vô địch đầu tiên, sau khi giành chiến thắng trước câu lạc bộ Tây Ban Nha nổi tiếng Real Madrid. Mùa giải tiếp theo, thi đấu trên sân nhà San Siro, Inter giành được chức vô địch Cúp C1 lần thứ hai sau khi đánh bại nhà vô địch Bồ Đào Nha Benfica.
Trong những năm này nhiều cầu thủ lớn đã khoác áo Nerazzurri như: Luis Suarez, Giacinto Facchetti, Sandro Mazzola, Angelo Domenghini, Mario Corso.Thời kỳ này Inter được dẫn dắt bởi huấn luyện viên huyền thoại Helenio Herrera, nguời nổi tiếng với việc đưa chiến thuật Cantenaccio lên một tầm cao mới. Chủ sở hữu và cũng là chủ tịch câu lạc bộ là Angelo Moratti, bố của người chủ sở hữu hiện nay. Ông đã có ý định chi ra những khoản tiền khổng lồ để mua về Eusebio và Pelé; hai cầu thủ này đã đồng ý chuyển đến Inter, nhưng giới chính trị đã can thiệp. Cả hai chế độ độc tài quân sự tại Bồ Đào Nha và Brasil từ chối phê chuẩn cho họ chuyển đi, và cả hai vụ chuyển nhượng đều thất bại. Vào năm 1967, Inter thua 1-2 trong trận chung kết Cúp C1 trước Celtic F.C. đánh dấu sự kết thúc của La Grande Inter.
1970 đến hiện nay
Tiếp theo những năm 1960, Inter giành chức vô địch quốc gia lần thứ 11 vào năm 1971 và lần thứ 12 vào năm 1980. Inter bị đánh bại lần thứ hai trong 5 năm tại trận chung kết cúp C1, thua 0-2 cho đội bóng của Johan Cruijff, Ajax Amsterdam vào năm 1972. Giữa những năm 1970 và 1980, Inter cũng đã giành được chức vô địch cúp quốc gia lần thứ hai và thứ ba vào các năm 1978 và 1982.
Internazionale cũng đã giành Cúp UEFA 3 lần, tất cả đều trong vòng 15 gần đây. Lần đầu vào năm 1990-91 sau trận chung kết hai lượt với A.S. Roma. Vào mùa giải 1993-94, Inter vô địch lần thứ hai, đánh bại đội bóng Áo Casino Salzburg. Lần chiến thắng UEFA Cup thứ ba là vào mùa giải 1997-98, Inter đánh bại Lazio trong trận chung kết duy nhất trên sân Parc des Princes tại Paris.
Mùa giải 2009/10 đánh dấu năm thành công nhất trong lịch sử hơn trăm năm của Inter khi Nerazzurri trở thành CLB Ý đầu tiên giành được cú ăn ba: Coppa Italia, Scudetto và Champions League mặc dù Inter khởi đầu mùa giải thất bại trong trận Siêu Cúp Ý. Tại Serie A, CLB có chức Vô địch Italia lần thứ 5 liên tiếp, trở thành đội thứ 2 trong lịch sử đạt được thành tích này. Tại đấu trường Châu Âu, Inter trở lại ngôi vua sau 45 năm chờ đợi, khi lần lượt vượt qua vô địch giải Ngoại hạng Anh năm đó là Chelsea, vô địch Liga Tây Ban Nha Barcelona và vô địch Bundesliga Đức Bayern Munich.
Các danh hiệu đạt được.
Vô địch quốc gia Ý: 18
1909-10; 1919-20; 1929-30; 1937-38; 1939-40; 1952-53; 1953-54; 1962-63; 1964-65; 1965-66; 1970-71; 1979-80; 1988-89; 2005-06; 2006-07; 2007-08; 2008-09; 2009-10
Cúp quốc gia Ý: 7
1938-39; 1977-78; 1981-82; 2004-05; 2005-06; 2009-10
Siêu cúp quốc gia Ý: 5
1989; 2005; 2006; 2008; 2010
Vô địch châu Âu: 3
1963-1964; 1964-1965; 2009-10
Cúp UEFA: 3
1990-91; 1993-94; 1997-98
Vô địch Cúp Liên lục địa/Giải thế giới các câu lạc bộ: 3
1964; 1965; 2010.