Câu lạc bộ được thành lập năm 1882 với tên gọi Hotspur Football Club. Cái tên này có liên quan với tên của Sir Henry Percy (Sir Harry Hotspur). Tuy nhiên, để tránh sự nhầm lẫn với một câu lạc bộ khác (London Hotspur), câu lạc bộ đổi tên thành Tottenham Hotspur như hiện nay. Sân nhà của câu lạc bộ là sân vận động White Hart Lane.
Tottenham Hotspur chuyển sang chuyên nghiệp cuối năm 1895. Năm 1899, Spurs chuyển đến địa điểm mới, nay chính là nơi đặt sân vận động White Hart Lane. Tháng 4 năm 1901, Tottenham vô địch cúp FA sau khi thắng Sheffield United (lượt đi: 2-2; lượt về: 3-1) và trở thành đội bóng đầu tiên không chơi tại giải vô địch quốc gia đoạt được cúp này.
Mùa giải 1909-10, Tottenham giành quyền lên hạng nhất nhưng không giành bật cứ danh hiệu nào cho đến năm 1920, năm họ đoạt chức vô địch giải hạng 2. Việc câu lạc bộ phải xuống hạng 2 mùa giải đó được cho là do sự bịp bợm khi Arsenal thay thế vị trí Tottenham mặc dù Arsenal chỉ đứng thứ 6 giải hạng 2 mùa giải trước.
SVĐ White Hart Lane nhìn từ trên cao
Ngày 23 tháng 4, Tottenham giành cúp FA lần thứ 2 sau khi đá bại Wolverhampton Wanderers 1-0 tại sân vận động Stamford Bridge. Tuy nhiên, sau chiến thắng này, Tottenham phải trải qua một giai đoạn xuống dốc rồi phải chơi ở giải hạng 2 từ năm 1928 đến năm 1950.
Năm 1951, Tottenham trở thành câu lạc bộ đầu tiên vô địch 2 hạng đấu trong 2 năm liên tiếp (giải hạng 2: 1950; giải hạng nhất: 1951). Các cầu thủ nổi tiếng thời gian này là Alf Ramsey, Ronnie Burgess, Ronnie Burgess, Len Duquemin, Sonny Walters và Bill Nicholson.
Năm 1958, Bill Nicholson trở thành quản lý mới và mở ra một thời kỳ huy hoàng cho câu lạc bộ. Các năm sau đó, Tottenham liên tục gặt hái nhiều danh hiệu. Đầu tiên là cú đúp vô địch Anh và cúp FA năm 1961. Năm sau tiếp tục đoạt cúp FA và vào bán kết cúp C1. Và giành cúp C2 năm 1963. Các cầu thủ nổi tiếng khi đó là Danny Blanchflower, John White, David Mackay, Cliff Jones và Jimmy Greaves.
Bill Nicholson một lần đoạt cúp FA năm 1967 với nhiều cầu thủ mới như Alan Gilzean, Mike England, Alan Mullery, Terry Venables, Joe Kinnear và Cyril Knowles. Mặc dù đoạt thêm 1 cúp UEFA năm 1972, 2 cúp Liên đoàn các năm 1971 và 1973 và lọt vào trận chung kết cúp UEFA năm 1974, nhưng Nicholson phải từ chức vì thành tích khởi đầu kém cỏi của mùa giải 1974-75.
Những năm đầu thập niên 1980, dưới sự dẫn dắt của Keith Burkinshaw, Tottenham giành chiếc cúp FA thứ 6 (1981) và 7 (1982) cùng với chiếc cúp UEFA thứ 2 (1984). Các cầu thủ quan trọng gồm Steve Archibald, Garth Crooks, Glenn Hoddle, Osvaldo Ardiles và Steve Perryman. Trong đó Steve Perryman đã chơi cho Spurs 655 ở giải vô địch trong 7 mùa bóng.
Từ đó đến cuối thế kỷ 20, Tottenham mới giành thêm 2 danh hiệu lớn gồm 1 cúp FA (1991) và 1 cúp Liên đoàn (1999). Các cầu thủ nổi tiếng đã chơi cho câu lạc bộ trong khoảng thời gian này có Paul Gascoigne, Gary Lineker, Jürgen Klinsmann, Gheorghe Popescu, Ilie Dumitrescu, Teddy Sheringham, Nick Barmby và Darren Anderton.
Thành tích đạt được:
Giải vô địch quốc gia: 2 1951, 1961 Cúp FA: 8 1901, 1921, 1961, 1962, 1967, 1981, 1982 & 1991 Cúp Liên đoàn bóng đá Anh: 4 1971, 1973, 1999, 2008 Siêu cúp bóng đá Anh: 2 1921, 1951, 1961, 1962, 1967, 1981*, 1991* (* đồng đoạt cúp)
Cúp C2: 1 1963 Cúp UEFA: 2 1972, 1984