PHIM NHẠC » Bật mí điện ảnh

VfB Stuttgart

Thứ hai, 25/07/2011 16:54

Verein für Bewegungsspiele Stuttgart 1893 e. V., thường được biết tới với tên VfB Stuttgart, là một câu lạc bộ bóng đá ở Đức có trụ sở ở Stuttgart, thủ phủ của bang Baden-Württemberg.

Đội bóng có sân nhà là sân Mercedes-Benz Arena nằm ở khu liên hợp thể thao Cannstatter Wasen. Sân này nổi tiếng với đội dự bị đầy tài năng của họ, VfB Stuttgart II, đội bóng hiện chơi ở giải hạng 3, nằm dưới 2 giải so với đội chính, ở giải đấu cao nhất cho phép dành cho đội dự bị.

VfB Stuttgart vào năm 1912

VfB Stuttgart là một câu lạc bộ gồm nhiều thành viên và với khoảng 45.037 (tính đến tháng 1 năm 2009), VfB là câu lạc bộ thể thao lớn nhất ở bang và lớn thứ 5 trên toàn nước Đức. Các bộ môn thể thao của họ luôn thi đấu rất thành công và đã đạt được nhiều huy chương và thành tích. Câu lạc bộ cũng đào tạo ở các bộ môn hockey, bóng và và trọng tài bóng đá. Những ngành này thi đấu ở giải ng hiệp dư.

Verein für Bewegungsspiele Stuttgart được thành lập vào ngày 2 tháng 4 năm 1912 sau khi được hợp vào từ hai câu lạc bộ Stuttgarter FV và Kronen-Club Cannstatt sau một cuộc họp giữa hai bên ở khách sạn Concordia ở Cannstatt. Các câu lạc bộ này được thành lập nên bởi các học sinh trung học những người học được những môn thể thao mới như Rugby và bóng đá từ người Anh.

FV Stuttgart

Stuttgarter Fußballverein được thành lập ở khách sạn Zum Becher ở Canstatt vào ngày 9 tháng 9 năm 1893. Ban đầu FV là một câu lạc bộ rugby, chơi ở sân Stöckach-Eisbahn trước khi chuyển sang sân Cannstatter Wasen vào năm 1894. Câu lạc bộ rugby thành lập một khu vực bóng đá vào năm 1908. Câu lạc bộ lấy cầu thủ từ các trường học địa phương, dưới sự dẫn dắt của thầy giáo Carl Kaufmann, và nhanh chóng có được thành công đầu tiên; vào năm 1909 họ về nhì sau FSV 1897 Hannover ở trận chung kết rugby, thua 6-3. Rugby sau đó được thay thế bằng bóng đá bởi các cổ động viên thấy rằng rugby quá phức tạp để hiểu.

Vào năm 1909 FV gia nhập giải Süddeutschen Fußballverband (Giải vô địch bóng đá miền Đông Đức), chơi ở giải B-Klasse. Trong mùa giải thứ hai FV thắng trong trận chung kết với đội bóng về sau xác nhập với họ là Kronen-Klub Cannstatt trước khi bị đánh bại bởi FV Zuffenhausen và phải chứng kiến đội bóng này lên hạng. Sau đó họ lên hạng nhất Südkreis-Liga vào năm 1912.

Kronen-Klub Cannstatt

Cannstatter Fußballklub ban đầu là một câu lạc bộ rugby vào năm 1890 và cũng nhanh chóng xây dựng một đội bóng đá. Câu lạc bộ này bị giải tán sau chỉ vài năm hoạt động và những thành viên cũ gia nhập FC Krone Cannstatt vào năm 1897 để chỉ chơi bóng đá. Đội bóng mới chơi ở giải Süddeutschen Fußballverband (SFV) là giải hạng hai và lên hạng vào năm 1904. Cannstatt có sân nhà, sân vận động vẫn tồn tại đến ngày nay là sân TSV Münster.

Sau khi sự tái hợp vào năm 1912 của hai đội bóng, đội bóng bay đầu chơi ở giải Kreisliga Württemberg và sau đó là giải Bezirksliga Württemberg-Baden, có một số lần về đích ở top 3 đội dẫn đầu và giành chức vô địch giải này ở năm 1927. Câu lạc bộ cũng có nhiều lần góp mặt ở vòng chung kết giải SFV vào cuối những năm 20 và đầu những năm 30.

1933-1945

Vào năm 1933 bóng dá Đức được tổ chức lại thành 16 giải đấu cao nhất gọi là Gauligen. Stuttgart chơi ở giải Gauliga Württemberg và đã có được những thành công ở đó, vô địch giải đấu vào năm 1935, 1937, 1938, 1940 và 1943 trước khi Gauliga đổ vỡ vào mùa giải 1944-45. Trong quãng thời gian này, đội bóng đã có đối thủ kình địch là Stuttgarter Kickers. Vào năm 1933, Stuttgart lần đầu tiên được chơi trên sân vận động mới "Neckarstadion" dưới sự chứng kiến của 40,000 cổ động viên. Sân này được xây để chuẩn bị cho giải điền kinh toàn nước Đức được tổ chức cũng vào năm đó.

Các danh hiệu ở Gauliga của VfB đã đưa đội bóng vào vòng vòng đấu loại trực tiếp, với kết quả thành công nhất của họ đến vào năm 1935 khi vào đến chung kết và để thua 4-6 trước nhà vô địch Schalke 04.

Giải đấu những năm 1950

Sau chiến tranh VfB tiếp tục chơi ở giải hạng nhất của Oberliga Süd, giành chức vô địch vào các năm 1946, 1952 và 1954. Câu lạc bộ cũng thường xuyên góp mặt ở giải vô địch Đức và vô địch các năm 1950 và 1952, về nhì năm 1953. Vào những năm 1950, đội bóng cũng 2 lần vô địch cúp quốc gia Đức (1954 và 1958). Đội bóng đã vô địch 4 danh hiệu trong 8 năm dưới sự dẫn dắt của Robert Schlienz người đã mất cánh tay trái trong một vụ tai nạn xe hơi. Không cầu thủ nào của Stuttgart được triệu tập vào đội tuyển vô địch World Cup 1954.

Bundesliga 1963

Do những kết quả thất vọng ở các giải đấu mang tầm quốc tế là World Cup 1958 và World Cup 1962, Liên đoàn bóng đá Đức giới thiệu một giải đấu chuyên nghiệp vào năm 1963. Thành tích thi đấu tốt của Stuttgart những năm 1950 đã tạo cơ hội cho họ là 1 trong 16 đội bóng tham gia vào giải Bundesliga. Vào thời kì giữa những năm 70 họ thường đứng ở vị trí giữa bảng xếp hạng. Một trong số ít những ngôi sao thời đó của họ là Gilbert Gress của Strasbourg.

Vào mùa giải 1972-73 đội bóng lần đầu lọt vào vòng bảng cúp UEFA và vào tới bán kết giải đấu này năm 1974 nơi họ đã thua đội vô địch Feyenoord Rotterdam sau hai lượt trận với các tỉ số 1-2 và 2-2.

1975-2000: Thời kì của chủ tịch Mayer-Vorfelder

Mayer-Vorfelder

Việc Stuttgart bị khủng hoảng vào giữa những năm 1970 đã khiến họ không thể thu hút được nhà đầu tư. Việc cố gắng nâng tầm lên cấp độ chuyên nghiệp bằng việc đầu tư thêm tiền đã thất bại. Tới cuối mùa giải 1974-75, với việc đội bóng đang bên bờ vực thẳm của việc bị xuống hạng, chính trị gia địa phương Gerhard Mayer-Vorfelder đã được chọn làm chủ tịch mới. Sau đó, trận hoà trong trận đấu cuối cùng của mùa giải khiến VfB bị tụt xuống thứ 16 và bị đánh bật khỏi Bundesliga. Mùa giải đầu tiên ở giải hạng hai được coi là mùa giải thất bại nhất trong lịch sử kết thúc với vị trí thứ 11 của Stuttgart, họ thậm chí đã thua một trận trên sân nhà gặp đối thủ kị dơ SSV Reutlingen trước sự chứng kiến của 1200 khán giả.

Với huấn luyện viên mới Jürgen Sundermann và các tài năng trẻ Karlheinz Förster và Hansi Müller, đội bóng được xây dựng xung quanh Ottmar Hitzfeld ghi hơn 100 bàn thắng ở mùa giải 1976-1977 và trở lại giải đấu cao nhất chỉ sau 2 mùa giải vắng bóng.

Đội hình trẻ trung đã nổi tiếng với lối đá tấn công và ghi nhiều bàn thắng, nhưng vẫn phải chịu sự thiếu hụt về kinh nghiệm. Vào cuối mùa giải 1977-78, VfB đứng thứ 4, nhưng họ đã lập kỉ lục về số khán giả trung bình đến sân trong một trận đấu là 53,000 cho tới năm 1990. Họ có một lần góp mặt ở bán kết cúp UEFA vào năm 1980 và có một số lần về đích ở top 4 đội dẫn đầu trên con đường đi tìm danh hiệu Bundesliga đầu tiên của họ - danh hiệu quốc gia thứ 3 - vào năm 1984, dưới sự dẫn dắt của Helmut Benthaus.

Vào năm 1986, VfB thua trong trận chung kết Cúp quốc gia Đức 5-2 trước Bayern Munich. Ở trận chung kết cúp UEFA 1989, họ thua Napoli (1-2, 3-3), đội bóng Diego Maradona chơi bóng vào thời điểm đó.

Vào mùa giải 1991-92, đội bóng giành được danh hiệu thứ 4 của họ, một trong những cuộc đua gay cấn nhất trong lịch sử Bundesliga, về đích ở trên Borussia Dortmund về hiệu số bàn thắng. Trên phương diện quốc tế, họ bị loại khỏi cúp UEFA mùa giải đó (1991-92) sau khi thua trận đấu ở vòng hai trước CA Osasuna (2-3). Với tư cách là một nhà vô địch, đội bóng được vào thẳng vòng bảng cúp C1 1992-93, nhưng bị loại từ vòng 1 trước Leeds United.

VfB không được tham dự cúp châu Âu cho tới năm 1997, sau khi vô địch cúp quốc gia Đức lần thứ ba dưới sự dẫn dắt của Joachim Löw. Họ giành được nhiều thành công sau khi trở lại, được tham dự trận Siêu cúp bóng đá châu Âu ở Stockholm, nơi họ thua Chelsea trong mùa giải gần cuối của giải đấu này. Chỉ có một người trong "tam giác ma thuật" của họ ở lại là đội trưởng Krassimir Balakov, trong khi hai người còn lại là Giovane Elber và Fredi Bobic rời đi. Hợp đồng của Low không được gia hạn, ông bị thay thế bởi Winfried Schäfer.

Tuy nhiên, màn trình diễn của Stuttgart đã sa sút sau sự kiện này bởi đội bóng chỉ giành được vị trí ở giữa bảng xếp hạng trong hai mùa giải sau đó mặc dù đã đầu tư tiền vào thị trường chuyển nhượng và cho những cựu binh như Balakov.

2000-2007: Giai đoạn sau Meyer-Volfelder và trở lại với thành công

Do nhiều sự chỉ trích và những kết quả không tốt, Gerhard Mayer-Volfelder cuối cùng cũng phải rời đội bóng vào năm 2000 để giữ chức vụ ở Liên đoàn bóng đá Đức, Liên đoàn bóng đá châu Âu và Liên đoàn bóng đá thế giới. Chủ tịch mới Manfred Haas đã kí hợp đồng với nhiều cầu thủ đắt giá. Vào năm 1976, khi Volfelder tiếp quản đội bóng, câu lạc bộ đã phải xây dựng lại với nền tảng là các cầu thủ từ đội trẻ. VfB có rất nhiều thành công ở các giải vô dịch bóng đá trẻ ở Đức.

Huấn luyện viên Ralf Rangnick đã bắt đầu xây dựng lại đội bóng và đã vô địch Intertoto cup, nhưng sau khi bị loại ở cúp UEFA đội bóng lại phải bắt đầu công cuộc chống xuống hạng vào năm 2001 và đã về đích ở vị trí thứ 15. Rangnick bị thay thế bởi Felix Magath.

Với những cầu thủ như Andreas Hinkel, Kevin Kurányi, Timo Hildebrand hay Alexander Hleb khiến đội bóng được đặt biệt danh "the young and wild" (Những cầu thủ trẻ và làn gió), đội bóng đã lấy lại phong độ và về đích thứ nhì ở Bundesliga mùa giải 2002-2003 sau chiến thắng 2-0 trước VfL Wolfsburg và sự giúp sức của Energie Cottbus ở vòng đấu cuối. Đó là lần thứ 4 họ về đích ở vị trí thứ nhì sau các năm 1935, 1953 và 1979.

Thành tích:

Vô địch bóng đá Đức (Bundesliga): 5         1950, 1952, 1984, 1992, 2007

Cúp Quốc gia Đức: 3         1953, 1979, 2003

Siêu cúp bóng đá Đức: 1         1992

Cúp UEFA Intertoto: 2         2000, 2002

Hữu Hiệp (Tổng hợp)